Di tích lịch sử

Quảng Ninh

Chùa Nam Thọ( Vạn Linh Khánh Tự)

Chùa Nam Thọ (có tên gọi khác là Vạn Linh Khánh Tự), thuộc khu Nam Thọ, phường Trà Cổ là một trong những di tích có giá trị tiêu biểu của thành phố Móng Cái, được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1999. Theo bài minh trên chuông đồng đúc lại, Chùa có từ Thiệu Trị thứ 3 (1843), vào năm Cảnh Thịnh thứ 15 triều vua Lê Hiển Tông (1754). Chùa Nam Thọ được xây dựng quay về hướng Bắc, với kết cấu kiểu chữ Hồi mang ý nghĩa là sự hội tụ của các dòng nước. Đó cũng là lý giải cho tên chữ của chùa: Vạn Linh Khánh (Sự linh thiêng, tốt lành). Chùa Nam Thọ gồm các công trình chính: Tam quan, Nhà Tổ, Nhà Mẫu, Nhà Khách ; đã nhiều lần được trùng tu, dấu ấn thời Lê không còn nữa. Nhưng tại đây vẫn còn lưu giữ được một hệ thống tượng gồm 53 pho tượng cổ. Đáng chú ý nhất là 4 pho tượng Thích Ca sơ sinh, 2 pho tượng Quan Âm Tống tử và 2 pho tượng Tam thế nhỏ mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cũng chính vì thế, nơi đây là một “bảo tàng điêu khắc cổ” thu nhỏ của vùng Đông Bắc Việt Nam. Một nét đặc biệt nữa của chùa Nam Thọ mà ít có di tích nào có được, đó là rừng cây cổ thụ phía sau chùa. Không chỉ là địa điểm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân địa phương, chùa Nam Thọ còn là một di tích lịch sử văn hóa gắn liền với quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước của nhân dân ta. Vào năm 1905, Phan Bội Châu trên đường đi Trung Quốc để sang gặp gỡ các nhà cách mạng Nhật Bản, Trung Quốc đề nghị họ hỗ trợ cho phong trào Đông Du. Trong một lần bị giặc truy đuổi, ông đã ẩn náu tại chùa Nam Thọ và được nhân dân cưu mang, giúp đỡ. Trong hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược, chùa là nơi tích trữ lương thực, nuôi giấu cán bộ cơ sở, cất giấu tài liệu cách mạng và là nơi tiễn đưa hàng ngàn con em địa phương lên đường tham gia kháng chiến. Năm 2014, UBND tỉnh Quảng Ninh đã ký quyết định phê duyệt dự án tu bổ, tôn tạo, phục hồi di tích chùa Nam Thọ với tổng mức vốn đầu tư huy động xã hội hóa trên 12 tỷ đồng. Nằm ở vị trí quan trọng nơi địa đầu tổ quốc, chùa Nam Thọ cũng như các công trình kiến trúc nghệ thuật và văn hóa khác của thành phố Móng Cái là “cột mốc” vững bền khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia, khắc ghi dấu ấn lịch sử và mang đậm những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam tại vùng biên cương của Tổ quốc. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2993 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

DI TÍCH LỊCH SỬ CÁCH MẠNG KHU MỎ MẠO KHÊ

Di tích lịch sử cách mạng khu mỏ gồm 03 điểm: + Địa điểm thứ nhất: Nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tại khu mỏ (Khu Dân Chủ) + Địa điểm thứ Hai: Xưởng cơ khí - mỏ Mạo Khê, là nơi các thành viên hội thanh niên cách mạng đồng chí Hội – Do Đ/c Hoàng Quốc Việt ( Tức Hạng Bá Cang ) đứng đầu, đã tiến hành chủ chương vô sản hóa- Đây là chủ trương tuyên truyền, rèn luyện và truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào gia cấp công nhân vùng mỏ, tạo điều kiện hình thành những tổ chức cao hơn của công nhân mỏ Mạo khê sau này. + Địa chỉ thứ Ba: Chùa Non Đông : Là cơ sở bí mật của tổ chức Đông dương cộng sản những năm 1929 – 1930. 3 địa điểm của Di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê là nơi ghi dấu ấn hoạt động của nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Văn Cừ và cũng là nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở Khu mỏ Quảng Ninh. Trong đó, chùa Non Đông được sử sách ghi lại có từ năm Trùng Hưng 1285; nhà máy cơ khí hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc. Trải qua thời gian, các địa điểm này đều đã bị hư hại, chỉ còn là phế tích. Năm 2015, từ nhiều nguồn vốn, tỉnh Quảng Ninh đã khởi công dự án trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê. Hiện nay, di tích lịch sử Mỏ than Mạo Khê là một trong 14 điểm du lịch trên địa bàn TX Đông Triều. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa có Quyết định số 3013/QD-BVHTTDL ngày 30/8/2019 về việc xếp hạng di tích quốc gia cho Di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê (phường Mạo Khê, TX Đông Triều). Nguồn Sở Văn hóa và thể thao tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 3325 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Đồn Cao Đông Triều

Đồn Cao Đông Triều nằm trọn trên quả đồi có độ cao 61m, tổng diện tích trên 145.000 m2. Đây là căn cứ do thực dân Pháp xây dựng để đặt trung tâm chỉ huy của chế độ thực dân Pháp đối với Đông Triều nói riêng trong thời kì đô hộ của chế độ thực dân Pháp Cùng với Đình Hổ Lao và chùa Bắc Mã, Đồn Cao là một trong những địa danh đã gắn liền với sự hình thành và ra đời của Chiến khu Trần Hưng Đạo- Chiến khu Đông Triều. Di tích lịch sử cấp quốc gia Đồn Cao Đông Triều nằm trọn trên quả đồi có độ cao 61m, tổng diện tích trên 145.000 m2. Đây là căn cứ do thực dân Pháp xây dựng để đặt trung tâm chỉ huy của chế độ thực dân Pháp đối với Đông Triều nói riêng trong thời kì đô hộ của chế độ thực dân Pháp. Nơi đây cũng đã đi vào lịch sử của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc thị xã Đông Triều. Di tích Đồn Cao Đông Triều là vị trí cao nhất của Trung tâm phường Đông Triều. Đồn Cao nằm án ngữ tuyến giao thông huyết mạch từ Chí Linh, Hải Dương đi Uông Bí Quảng Ninh, từ Kinh Môn, Hải Dương qua phà Triều sang Đông Triều. Từ Đồn Cao Đông Triều có thể quan sát, phát hiện từ xa các mục tiêu từ phía Bắc xuống phía Nam và từ phía Đông sang Tây của thị xã. Vì vậy, sau khi xâm lược Việt Nam, năm 1896 thực dân Pháp đã tổ chức cho xây dựng một trại lính ở đây để phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược và khai thác vơ vét tài nguyên khoáng sản tại Đông Triều. Năm 1945, nhân dân ta giành chính quyền, đồn Cao Đông Triều thuộc quyền quản lý của chính quyền cách mạng. Sáng mùng 8/6/1945, Đồn Cao Đông Triều đã bị nghĩa quân Đệ tứ chiến khu dưới sự chỉ huy của trung tướng Nguyễn Bình đánh chiếm, mở đầu cho cao trào cách mạng tháng Tám trong toàn vùng. Nghĩa quân xuất phát từ chùa Bắc Mã, sau khi đánh chiếm Đồn Cao Đông Triều đã tập kết tại đình Hổ Lao. Tại đây, thay mặt Trung ương, trung tướng Nguyễn Bình đã tuyên bố thành lập chiến khu kháng chiến Trần Hưng Đạo hay còn gọi là Đệ tứ chiến khu. Năm 1947, thực dân Pháp liên tiếp mở những trận đánh lớn chiếm lại Đông Triều. Lần này, chúng chiếm đến đâu cho xây dựng củng cố ngay hệ thống đồn bốt tháp canh đến đó, nhằm chiếm giữ lâu dài và khống chế lực lượng ta đánh trả từ xa. Đến ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Đồn Cao thuộc quyền kiểm soát của ta. Trải qua thời gian dài, hiện nay các công trình thuộc di tích Đồn Cao Đông Triều đã bị phá hủy khá nhiều, chỉ còn lại một phần trong số các công trình như nhà ở của quan Ba, nhà ở của lính khố xanh và nhà biệt giam tra tấn tù Cộng sản, trận địa pháo, hệ thống lô cốt, hầm ngầm… Những dấu tích ở đây vẫn là những chứng tích quan trọng đánh dấu một thời kỳ lịch sử không thể quên của toàn dân tộc nói chung, của đảng bộ và nhân dân Đông Triều nói riêng. Ngày 24/5/2017, di tích Đồn Cao đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Lịch ra quyết định số xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia. Trong tương lai, Đồn Cao sẽ được tu bổ, phục hồi. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 3021 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Lê Chân (đền An Biên)

Đền thờ nữ tướng Lê Chân (đền An Biên) toạ lạc bên sườn núi Vẻn thuộc làng Vẻn cổ, thôn An Biên, xã Thuỷ An, thị xã Đông Triều. Đây chính là nơi nữ tướng Lê Chân sinh ra và lớn lên những năm tháng tuổi thơ cùng cha mẹ. Khi bà qua đời, nhân dân ghi nhớ công lao to lớn của bà đã xây dựng ngôi đền ngay trên quê hương để thờ bà Lê Chân, một nữ tướng xinh đẹp, tài giỏi đã lãnh đạo nhân dân đứng lên đánh giặc trong cuộc kháng chiến chống ách đô hộ phương Bắc dưới thời Hai Bà Trưng. Từ dũng tướng đánh giặc, nữ tướng Lê Chân trở thành Thánh Mẫu trong cảm quan tín ngưỡng dân gian, là hiện tượng văn hóa đặc biệt. Khi Lê Chân qua đời, đền thờ Bà được lập ở nhiều nơi của các tỉnh như Quảng Ninh, Hà Nam, Hải Phòng, Hà Nội… Năm 2006, đền An Biên đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh và năm 2017, được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia. Năm 2018 nhân kỷ niệm ngày thắng trận của Nữ tướng Lê Chân (15/8 âm lịch), TX Đông Triều đã tổ chức lễ động thổ, khởi công hạng mục đền chính. Sau gần 3 năm triển khai thi công tu bổ và tôn tạo di tích, đầu năm 2021, đã hoàn thành đền chính, nghi môn và sân đền khang trang như ngày nay. Lễ hội diễn ra trong 03 ngày, từ 16- 18/3 hàng năm. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2865 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Đình chùa Hổ Lao

Đình làng- Chùa làng Hổ Lao xưa kia thuộc xã Hổ Lao, huyện Đông Triều, tổng Mễ Sơn, phủ Kinh Môn (nay là thôn Hổ lao, xã Tân Việt, thị xã Đông Triều) đã có từ lâu đời. Đình và chùa tọa lạc trên một gò đất tương đối bằng phẳng ngay đầu thôn Hổ Lao. Theo thuật phong thủy thì gò đất đó có hình con Hổ, đình và chùa được xây dựng trên đầu con vật này theo hướng Đông- Nam, phía trước có cánh đồng lúa xanh tốt, xa xa có dòng sông Đạm, phía sau có dãy núi thuộc vòng cung Đông Triều. Quả thật là một nơi linh địa. Theo các cụ già ở địa phương cho biết trước kia đình Hổ Lao có kiến trúc hình chữ Nhị, bái đường có năm gian, hai trái, hậu cung có ba gian hai trái, đình làng lợp ngói vẩy Rồng, cột xà đều bằng gỗ lim, sân chùa phong quang, sạch, đẹp, vườn chùa có nhiều cây cổ thụ xanh tốt quanh năm tạo nên vẻ thanh bình, cổ kính. Trải qua bao thăng trầm lịch sử thiên tai, giặc dã nên đình và chùa làng Hổ Lao đã bị đổ nát, bia ký bị phá hủy, đến đời Nguyễn được trùng tu lại. Hiện nay còn sáu bia đá được tạc dựng vào các năm: Tự Đức thứ 17 (1864), Thành Thái thứ 16 (1904), năm Bảo Đại thứ nhất (1926), Bảo Đại thứ 7 (1932), Bảo Đại thứ 14 (1939) và năm Bảo đại nguyên niên. Căn cứ vào các văn bia thì vào năm 1864 có ông lý trưởng làng là Nguyễn Văn Năng và vợ là Nguyễn Thị Tham đã xuất tiền cho dân tu sửa đình và hiến cho làng 18 mẫu ruộng luân phiên canh tác chi vào việc cúng giỗ, tế lễ. Đến đời Thành Thái (1889 -1907) do bị hỏa hoạn, giặc giã nên đình làng lại bị đổ nát, dân tình ly tán, ruộng đất hoang phế. Đến đời vua Duy Tân có ông lý trưởng làng là Mạc Văn Cửu hết lòng chăm lo cho dân đã cùng chánh hội Thái Trọng Lương hội họp dân làng bàn việc sửa đình. Lại được ông chủ thầu đất sét trắng giúp đỡ tiền của nên dân làng xây dựng được thêm chùa và tạc Cửu Long Thánh Tượng để thờ trong chùa. Ông lý trưởng Mạc Văn Cửu là người hết lòng vì dân làng, nhiều năm lao tâm, khổ tứ “tìm đất chiêu mộ dân, khai hoang đồng đất, dân yên, tục tốt, họp dân định lệ, mọi thứ đều đổi mới; bỏ của cải tài trợ không tiếc, phong hóa dân ta thực từ bấy giờ” (bia thời Từ Đức). Từ đó đến sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đình, chùa làng Hổ Lao trở thành trung tâm văn hóa của làng, xã. Khi phong trào Việt Minh ở Đông Triều phát triển mạnh thì nơi đây đã trở thành một căn cứ hoạt động của nghĩa quân cách mạng, nhiều sự kiện chính trị quan trọng đã diễn ra ở đây. Chiều ngày 20/4/1945 đội võ trang tuyên truyền đầu tiên của Mặt trận Việt Minh ở Đông Triều được thành lập, sáng ngày 1/5/1945 đội làm lễ ra mắt trước miếu Thổ thần nhà ông Mạc Văn Niết ở làng Hổ Lao. Đội được nhân dân làng Hổ Lao nuôi dưỡng, hai ông Mạc Văn Niết và Mạc Văn Quễ phụ trách hậu cần cho đội. Giữa tháng 5/1945 lực lượng vũ trang tập trung của huyện Đông Triều được thành lập và thường xuyên tập luyện tại sân đình Hổ Lao, tổ chức các cuộc họp tuyên truyền, truyền đạt chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Lực lượng vũ trang non trẻ này đã lớn mạnh nhanh chóng là chỗ dựa vững chắc cho nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để lực lượng vũ trang cùng nhân dân đồng loạt nổi dậy đánh chiếm 4 đồn: Đông Triều, Chí Linh, Mạo Khê, Tràng Bạch ngày 8/6/1945 và đã giành thắng lợi vang dội. Chiều ngày 8/6/1945 trong không khí nghĩa quân ăn mừng chiến thắng tại đình làng Hổ Lao, ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã họp quyết định thành lập Uỷ Ban Quân Sự Cách Mạng gồm các đồng chí Nguyễn Bình, Hải Thanh, Trần Cung và một số ủy viên khác do Nguyễn Bình đứng đầu. Sáng ngày 9/6/1945 trong cuộc mít tinh tại sân đình làng Hổ Lao, Trần Cung thay mặt ban lãnh đạo khởi nghĩa tuyên bố thành lập chiến khu cách mạng mang tên ĐỆ TỨ CHIẾN KHU, lực lượng võ trang chiến khu mang tên “DU KÍCH CÁCH MẠNG QUÂN”, công bố danh sách UBQSCM. Nguyễn Bình đại diện UBQSCM tuyên đọc “bảy điều kỷ luật của du kích cách mạng quân”. Hổ Lao đã trở thành trung tâm căn cứ quân sự của chiến khu. Từ nơi đây Nguyễn Bình và ban lãn đạo chiến khu đã chỉ huy các đơn vị mở rộng phạm vi hoạt động giành được nhiều chiến công vang dội ở Uông Bí, Quảng Yên, và vùng Đông Bắc Tổ Quốc. Đệ tứ chiến khu (chiến khu Đông Triều- chiến khu Trần Hưng Đạo)) đã trở thành một căn cứ chống Nhật oanh liệt trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, cổ vũ nhân dân vùng Đông Bắc đứng lên chống Nhật, cùng với cả nước tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa 19/8/1945 giành thắng lợi. Năm 1947 thực dân Pháp quay lại chiếm đóng Đông Triều chúng ra sức phá hủy các căn cứ cách mạng trong đó có làng Hổ Lao. Đình, chùa làng Hổ Lao cũng bị tàn phá.trở thành phế tích. Năm 1993 nhân dân trong làng đã góp tiền của xây dựng lại hậu cung ngôi chùa cũ làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng. Năm 1997 trên nền ngôi đình cũ xã Tân Việt đã xây dựng một nhà bia tưởng niệm nơi thành lập ĐỆ TỨ CHIẾN KHU và ghi công những người con của quê hương đã anh dũng hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ biên giới Tổ Quốc. Do có nhiều công lao đóng góp xây dựng, nuôi dưỡng và bảo vệ nghĩa quân cách mạng nhân dân làng Hổ Lao đã được nhà nước tặng bằng CÓ CÔNG VỚI NƯỚC. Ngày 12/7/2001 Bộ Văn Hóa Thông Tin đã ra quyết định công nhận Đình – Chùa làng Hổ Lao là Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Quốc Gia. Ngày 12/12/2007 Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch và các ngành có liên quan của tỉnh, huyện và địa phương đã làm lễ khởi công trùng tu tôn tạo lại đình, chùa Hổ Lao và xây dựng một số công trình phù trợ với tổng kinh phí dự toán gần 16 tỷ đồng. Các tín đồ phật tử, khách thập phương công đức được trên 2 tỷ đồng. Những đóng góp của nhân dân làng Hổ lao nói riêng, của nhân dân xã Tân Việt nói chung đã góp phần vào chiến công của nhân dân Đông Triều được nhà nước tặng danh hiệu cao quý “Huyện Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.”Ngày 28/5/2010 nhà nước đã trao tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” cho nhân dân và lực lượng vũ trang xã Tân Việt vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Giờ đây, cùng với ngày kỷ niệm 8/6- ngày thành lập Chiến khu ĐôngTriều, hằng năm nhân dân xã Tân Việt còn có thêm một ngày hội lớn: Lễ hội đình, chùa Hổ Lao được tổ chức vào ngày đầu xuân mới (15 tháng giêng). Nằm liền kề với Đền Sinh và khu lăng mộ nhà Trần (di tích Quốc gia đặc biệt) và với những giá trị Lịch sử- Văn hóa Quốc gia … đình, chùa Hổ Lao sẽ là một địa chỉ du lịch hấp dẫn góp phần vào việc giáo dục truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm; phát triển kinh tế, văn hóa , xã hội du lịch của địa phương và thị xã Đông Triều. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 3161 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Mỹ Cụ (Sùng Khánh Tự).

Chùa Mỹ Cụ, tên chữ là Sùng Khánh Tự. Chùa được xây dựng ở làng Mỹ Cụ nên lấy tên làng đặt cho chùa. Tên làng được xuất phát từ truyền thuyết: “Tương truyền xưa vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử đi tu, dân làm cỗ ngon dâng vua, nên đặt tên là Mỹ Cụ” còn tên Sùng Khánh Tự mang ý nghĩa đề cao phật pháp vô biên, khánh có nghĩa là tốt lành. Chùa Mỹ Cụ tọa lạc bên sườn núi Chè (ngọn núi mang hình con rùa), thuộc thôn Mỹ Cụ, phường Hưng Đạo, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Vào thời Trần Phật giáo bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam và ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của cuộc sống. Sau khi vua Trần Nhân Tông đi tu ở Yên Tử và sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm qua đời, Pháp Loa dưới sự dìu dắt của vua Trần Nhân Tông đã được truyền Pháp y và lên làm vị tổ thứ 2 của phái thiền Trúc Lâm. Dưới thời Pháp Loa, giáo lý Trúc Lâm có sức quyến rũ mạnh mẽ tín đồ đạo Phật. Từ Yên Tử, giáo lý Trúc Lâm phát triển ra khắp vùng Đông - Bắc. Thời kỳ này có 800 ngôi chùa lớn nhỏ được dựng lên. Chùa Mỹ Cụ cũng được xây dựng vào thời kỳ này. Khởi dựng chùa có quy mô và kết cấu kiến trúc kiểu chữ đinh. Đến thời sau này chùa được mở rộng ra khá khang trang, bao gồm chùa chính, nhà tổ, nhà tăng, tạo thành một kiến trúc tổng thể hình chữ khẩu. Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo được ghi lại ở văn bia đặt ở sân chùa. Nhưng cuối thời Nguyễn, ngôi chùa đã bị tàn phá, chỉ còn lại chùa chính kiến trúc kiểu chữ đinh (T) với kết cấu vì kèo và điêu khắc còn giữ được khá nguyên trạng và hệ thống tượng pháp có giá trị nghệ thuật cao, như tượng: A Di Đà, tượng Thích Ca Mầu Ni, tượng Quan Âm Chuẩn Đề, tượng Ca Diếp, tượng Anan... Các pho tượng gỗ có liên đại từ thời Tây Sơn và thời Nguyễn vẫn được lưu giữ khá tốt. Hệ thống tượng pháp được tạc tỉ mỉ và khéo léo, mỗi pho tượng mang một hình dáng, biểu hiện nội tâm khác nhau. Các nét chạm trổ mềm mại nhưng khỏe khoắn và dứt khoát. Màu sắc, hoa văn trang trí trên từng pho tượng đều mang đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó chùa Mỹ Cụ còn có những mảng chạm ở các vì kèo, đầu dư, kẻ, bảy... thể hiện sự khéo léo và cầu kỳ của những người thợ có tâm tạo dựng và trùng tu chốn phật đài. Cổng thông tin điện tử Thị Xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2971 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Trung tâm chiến khu Đông Triều (chùa Bắc Mã)

Trung tâm căn cứ này được đặt ở chùa Bắc Mã còn có tên chữ là Phúc Chí Tự nghĩa là chùa hướng tới cái phúc. Chiến khu Đông Triều là tên gọi theo địa danh, nơi căn cứ chính nằm ở huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Chiến khu Đông Triều còn gọi là chiến khu Trần Hưng Đạo (đây là cách đặt tên của Trung ương Đảng). Di tích lịch sử cách mạng, văn hoá chiến khu Đông Triều là căn cứ lãnh đạo cách mạng trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp. Trung tâm căn cứ này được đặt ở chùa Bắc Mã còn có tên chữ là Phúc Chí Tự nghĩa là chùa hướng tới cái phúc. Chiến khu Đông Triều là tên gọi theo địa danh, nơi căn cứ chính nằm ở huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Chiến khu Đông Triều còn gọi là chiến khu Trần Hưng Đạo (đây là cách đặt tên của Trung ương Đảng). Để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trong cả nước, ngay từ ngày 15/4/1945 Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã triệu tập hội nghị quân sự cách mạng ở Hiệp Hòa (Bắc Giang), Hội nghị đã quyết định thành lập bảy chiến khu trong cả nước đó là: chiến khu Lê Lợi, chiến khu Hoàng Hoa Thám, chiến khu Quang Trung, chiến khu Trần Hưng Đạo, chiến khu Phan Đình Phùng, chiến khu Trưng Trắc, chiến khu Nguyễn Tri Phương. Thực hiện quyết định của Hội nghị quân sự Bắc kỳ, xứ ủy Bắc kỳ đã đề ra chủ trương xây dựng chiến khu Trần Hưng Đạo ở vùng Đông Bắc. Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, các ngôi chùa ở Đông Triều đã đóng một vai trò khá quan trọng, chùa Bắc Mã là ngôi chùa có vai trò nhất trong việc hình thành căn cứ chiến khu Trần Hưng Đạo, là nơi sư cụ Võ Giác Thuyên thường xuyên tiếp đón các vị sư cách mạng đó là những cán bộ cách mạng mang danh nhà sư để dễ bề hoạt động (trước tháng tám năm 1945 chùa Bắc Mã là một ngôi chùa lớn, có uy tín trong vùng và lại nằm ở nơi có truyền thống cách mạng, đó là những điều kiện thuận lợi để xây dựng căn cứ). Chùa Bắc Mã là một tổng thể không gian kiến trúc quy mô được xây dựng trong một khuôn viên có diện tích tới ba mẫu đất. Theo các văn bia, văn tự Hán còn lưu giữ cho thấy lịch sử chùa Bắc Mã trên dưới sáu trăm năm và đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo vào thời Lê, thời Nguyễn. Đặc biệt vào năm Bảo Đại Nguyên niên 1926 chùa được xây lại quy mô hơn, thành một ngôi chùa rộng lớn, đẹp, thiêng liêng. Ruộng đất của nhà chùa có tới 20 mẫu với ba con trâu cày và hai lực điền giúp việc. Đến nay chùa Bắc Mã không còn giữ được nguyên vẹn như trước, kết cấu khung kiến trúc đã bị đổ nát hoàn toàn nhưng một số hiện vật vẫn còn giữ lại được. Nghệ thuật chạm khắc trên đá ở chùa Bắc Mã được thể hiện khá tinh xảo ở các hiện vật còn lại (bia đá, con rồng, tháp…) Nó kết hợp được một cách khéo léo nghệ thuật của các thời kỳ trần, Hậu Lê, Nguyễn. Chạm khắc đá thể hiện nét điêu khắc thời Trần qua tượng con rồng được đặt ở bậc lên xuống, còn lại. Bố cục rồng gọn, đường nét rất sinh động khoẻ khoắn, thân có hình tròn lẳn, mập mạp, múp dần về phía sau đuôi, uốn khúc nhẹ. Điêu khắc đá thời Hậu Lê được thể hiện rõ ở các bia đá với hình hai con rồng chầu mặt nhật, các nét chạm khắc mạch lạc, hai bên khung dọc theo thân bia là hoa lá mềm mại, cách điệu biểu hiện điêu khắc thời Lê Địa điểm lịch sử trung tâm chiến khu Đông Triều đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử Cấp Quốc gia theo Quyết định số 2379/QĐ-BT, ngày 05/9/1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 3055 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Cụm di tích lịch sử và thắng cảnh Yên Đức

Cụm di tích lịch sử - thắng cảnh Yên Đức nằm ở phía Tây Nam xã Yên Đức, phía Đông Nam thị xã Đông Triều, phía Tây tỉnh Quảng Ninh; cách thành phố Hạ Long khoảng 60km và cách thủ đô Hà Nội 100km. Cụm đi tích này được hợp thành bởi 5 di tích: Núi Canh, núi Đống Thóc, núi Thung, núi Con Chuột, núi Con Mèo. Tất cả như hội tụ về đây tạo thành một vùng non nước hữu tình, mỗi di tích đều mang một giá trị lịch sử, cách mạng, văn hóa riêng, không chỉ có giá trị thắng cảnh tuyệt đẹp mà gắn liền với mỗi di tích là một truyền thuyết dân gian có liên hệ khăng khít mật thiết với nhau như không thể tách rời. 1. Di tích núi Canh: Do các ngọn núi của làng Yên Khánh và làng Đồn Sơn tạo thành giống như hình cái cày, tạo thành bức tường thành trấn ải cửa ngõ Đông Bắc của xã. Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước đứng trên đỉnh núi Canh có thể bao quát toàn bộ các khu vực xung quanh, các trạm canh gác trên núi được xây dựng nên núi Canh còn có nghĩa là Canh gác. Tại núi Canh, từ xa xưa Trần Nhân Tông đã chọn nơi đây để chỉ huy tầm xa chiến trận Bạch Đằng Giang lần thứ 2 ( 1285). Thời kỳ chống giặc phương Bắc Yên Đức cũng gắn liền với quá trình dựng và giữ nước của dân tộc. Vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp núi Canh đã từng là căn cứ kháng chiến của nghĩa quân Yên Thế, là kho dự trữ lương thực, thực phẩm phục vụ kháng chiến. Cũng từ chiến dịch này các ngõ ngách, hang động trên núi Canh được khơi thông với những tên tuổi sống mãi với non nước như: Hang gốc Bòng, hang gốc Gạo, hang Luồn ... Hang 73 ở phía Tây núi - nơi ghi dấu tội ác tày trời của thực dân Pháp đã giết và hun chết 106 người, trong đó có 73 chiến sỹ, cán bộ, đồng bào ta chung một mộ. Mỗi hang đều gắn liền với những chiến công hiển hách, đã đi vào lịch sử với những chiến thắng vĩ đại trong lòng nhân dân Yên Đức. 2. Di tích núi Đống Thóc: Nằm trong lòng quần thể núi Yên Đức, một bên là núi Thung, một bên là núi Con Mèo. Núi có hình thù giống như một đống thóc vừa to vừa đầy. Với cư dân nông nghiệp nó là biểu tượng cho sự phồn thịnh, no đủ, sung túc, sự trù phú của làng quê Việt Nam. 3. Di tích núi Con Chuột: Nằm cuối cùng về phía Nam trong cụm di tích trên bãi nổi giữa ngã ba sông đá Bạch, sông Kinh Thầy, sông Đá Vách, hình thù giống như một con chuột đang rình phá thóc, nhưng bị núi Con Mèo ngăn chặn. Trong truyền thuyết núi Con Chuột biều tượng của thế lực gian tà trên cả nghĩa rộng, nghĩa hẹp. Phá hoại thành quả của con người. 4. Di tích núi Con Mèo: Còn có tên là Ngọa Miêu Sơn, có hình thể giống như con mèo đang nằm rình chuột, chặn chuột để bảo vệ đống thóc, bảo vệ thành quả của con người. Và nó cũng là biểu tượng bảo vệ cho sự an bình thịnh vượng sự trường tồn của non sông đất nước. Đây cũng là địa điểm chỉ huy tầm xa chiến trận Bạch Đằng Giang chống quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ 2 (1285). Di tích được liệt vào một trong những danh sơn của vùng Đông Bắc. trong vòm hang có một số bài thơ chữ Nôm, chữ Hán, chữ Quốc Ngữ, trong đó có bài thơ Nôm nổi tiếng mang dòng chữ " Nhân tộn Hoàng đế ngự đề. niên hiệu trùng tu bát niên xuân". Tuy nhiên hiện nay chỉ còn duy nhất vòm hang núi, thân đầu con mèo đã bị tàn phá. 5. Di tích núi Thung: Nằm về phía Tây của quần thể di tích. Thung có nghĩa là cối giã gạo, dưới chân núi là tường đá bao quanh. Xưa kia ở phía Đông ngọn núi có ngôi chùa Cảnh Huống được trùng tu lớn nhất vào năm 1694, nhưng vào năm 1980 - 1982 chùa bị phá hủy hoàn toàn chỉ còn lại bài thơ khắc vào đá và một tấm bia tạc ở khe đá núi Thung, đến năm 1994 - 1995 chùa được khôi phục lại. Phía Đông núi còn lại một ngôi tháp cao ba tầng, phía Nam còn lại một cổng được gọi là cổng Thung, hai tầng xây bằng gạch đỏ. phía Nam chân núi có Chùa Một mái, có một phiến đá rộng tạo thành một cửa hang nhân dân lập ban thờ, phía ngoài xây tường mở rộng trước cửa, bên trong còn có một số pho tượng, đặc biệt chú ý là còn duy nhất một cuốn thư sơn son thếp vàng với 4 chữ Hán nổi: Thị ứng xương kỳ; bên trái chùa Một mái là đền thờ 8 vị thủy tổ có công khai dân lập làng được sửa lại năm 1987, bên phải chùa là một giếng nước ngọt, có bài thơ viết bằng chữ Hán khắc vào vách núi kể về sự kiện năm hạn hán đào cái giếng này, bài thơ khắc niên hiệu: Khải Định tam niên tam nguyệt, cạnh giếng nước là lầu bình thơ được xây dựng vào thế kỷ XIX trên một tảng đá nổi về phía Tây Nam núi, kiến trúc cửa vòm 4 cửa thông, trong có hai bài thơ viết bằng mực tàu trong cuốn thư trên vách lầu. Di tích núi Thung ngoài ý nghĩa là một danh thắng, tên tuổi gắn với tiềm thức của cư dân nông nghiệp lúa nước mà còn là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử văn hóa, lưu giữ nhiều văn bia chữ Hán trải qua quá trình dựng và giữ nước. Với những giá trị về lịch sử, cách mạng, văn hóa và danh thắng cụm di tích Yên Đức đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử - thắng cảnh cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 1822 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử quốc gia Miếu Ông - Miếu Bà

Di tích lịch sử Quốc gia Miếu Ông và Miếu Bà thuộc xã Nam Sơn, nằm đối diện hai bên bờ sông Ba Chẽ, soi bóng xuống dòng nước trong xanh, sơn thuỷ hữu tình, cách cầu Ba Chẽ khoảng gần 1km. Hằng năm cứ đến ngày 01/3 Âm lịch, xã Nam Sơn, huyện Ba Chẽ tổ chức Lễ hội Miếu Ông - Miếu Bà. Di tích Miếu Ông - Miếu Bà thuộc xã Nam Sơn, cách cầu Ba Chẽ gần 1 km. Miếu Ông là nơi thờ Thành hoàng làng: Thần Tam Trĩ và những anh hùng dân tộc. Theo các tài liệu nghiên cứu được lưu giữ, miếu Ông thờ Đức thánh Phù Trần tả tướng quân Lê Bá Đức, người có công lớn trong việc cùng quân và dân nhà Trần đánh giặc Nguyên - Mông ở thế kỷ XIII. Vào tháng 02/1285, trong cuộc hành quân chiến lược để tạo thế và lực chống quân Nguyên - Mông, Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông và Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn đã đi qua sông Ba Chẽ. Đi cùng hộ giá có tướng quân Lê Bá Đức, ông không chỉ là người cầm quân giỏi, mà còn có những quyết sách đúng đắn. Nhận định được sức mạnh của quân giặc, tả tướng quân đã cho người cùng hộ giá vua và Thái Thượng Hoàng rời thuyền đi bộ đến Thủy Chú để tiếp tục hành trình vào Thanh Hóa. Trong một lần đánh nhau giáp lá cà với quân giặc, tướng quân Lê Bá Đức đã hy sinh. Cảm phục trước tấm lòng hy sinh vì nước, vì dân, nhân dân địa phương đã xây một ngôi miếu để thờ ông và phong là thần hoàng của làng. Với những giá trị to lớn về mặt lịch sử, văn hóa, tâm linh nên năm 2013 di tích Miếu Ông - Miếu Bà được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh, đến tháng 10/2020 được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Ngay bên cạnh dòng sông Ba Chẽ, đối diện với Miếu Ông đó là Miếu Bà. Đây là nơi thờ Mẫu Thượng Ngàn (tức Bà chúa của rừng xanh). Theo truyền thuyết, Mẫu là con gái của Sơn Tinh (tức Tản viên Sơn Thánh) và công chúa Mỵ Nương (con gái Vua Hùng thứ 18). Bà đã có công dạy người dân miền núi cách trồng cây ăn quả, trồng lúa nương, đắp ruộng bậc thang, dựng nhà cửa, hái cây thuốc để chữa bệnh… Tháng 7/2014, được sự quan tâm của Ban trị sự giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh hỗ trợ kinh phí và sự ủng hộ của nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài huyện, toàn bộ công trình xây dựng Miếu Bà đã hoàn thành và mở cửa phục vụ nhu cầu tâm linh của nhân dân các dân tộc trong huyện và du khách gần xa. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2246 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Trà Cổ

Đình Trà Cổ nằm ở khu Nam Thọ, phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Đây được đánh giá là ngôi đình khá đồ sộ ở địa đầu đất nước và hoàn toàn mang dấu ấn nền văn hoá Việt. Theo hồ sơ khoa học xếp hạng của di tích, Đình được xây dựng từ thời Hậu Lê ( năm 1461), quá trình hình thành và tồn tại của đình Trà Cổ gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Trà Cổ ngày nay. Theo truyền thuyết, vào thời Hậu Lê (năm 1461), người dân làm nghề đánh cá từ đất Đồ Sơn (Thuộc thành phố Hải Phòng ngày nay) thường đi cả gia đình kiếm kế sinh nhai ở nhiều vùng biển xa, về cả miền cửa biển (Thuộc vùng biển Trà Cổ - Móng Cái hiện nay). Trong một lần sóng to gió lớn, mười hai gia đình đã trôi dạt vào một bán đảo hoang vu chỉ có sú vẹt và lau sậy. Không chịu nổi sự vất vả, sáu gia đình đã tìm cách để quay về quê cũ. Sáu gia đình còn lại quyết tâm bám đất, xây dựng một vùng quê mới. Thế rồi, ngày ngày họ cùng nhau khai phá đất mới, vừa đánh cá, vừa khai hoang. Ban đầu chỉ là 06 ngôi nhà đơn sơ và dần dần đã trở thành một xóm làng trù phú. Và như nhiều làng quê khác trên đất nước Việt Nam, đình Trà Cổ đã được nhân dân góp công, góp của xây dựng. Sau khi xây dựng đình, nhân dân địa phương đã trở về quê cũ để xin chân hương các vị thành hoàng làng về thờ tại Đình (Không Lộ, Giác Hải, Nhân Minh, Huyền Quốc, Quảng Trạch). Ngoài ra, đây cũng là nơi phối thờ của 6 vị tiên công đã có công khai khẩn, lập nên vùng đất Trà Cổ xưa. Trải qua những tác động của thời gian, đến nay đình Trà Cổ đã trải qua nhiều lần trùng tu lớn. Trong đó lần trùng tu gần đây nhất là vào năm 2012. Ngôi đình hiện nay, được xây dựng trên một khu đất có tổng diện tích hơn 1000 m2, quay theo hướng Nam, có kiến trúc kiểu chữ đinh, gồm 05 gian 02 trái bái đường và 03 gian hậu cung với kết cấu kiến trúc gỗ cổ truyền. Toàn bộ công trình được dựng lên bằng sự liên kết khung gỗ và được liên kết với nhau bởi các chốt mộng. Ngôi đình là một kiến trúc cổ bề thế, mái lợp ngói vẩy, bốn góc đao cong vút như một con thuyền rẽ sóng lướt tới, tạo nên dáng vẻ thanh thoát. Đặc biệt các bức cốn ở vì kèo thể hiện đường nét chạm trổ chắc khỏe, tinh xảo và rất sống động. Đề tài phong phú gồm các mảng chạm long cuốn thủy phượng bay, hổ rình mồi bên cành hoa lá… Mỗi bức chạm là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc mang dấu ấn đương thời. Đây được đánh giá là một trong những ngôi đình có quy mô đồ sộ và kiến trúc độc đáo của khu vực Đồng bằng Bắc Bộ. Hiện nay, tại đình Trà Cổ hiện nay còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như: 03 đỉnh hương đồng, 2 hạc cưỡi đầu rùa bằng gỗ sơn son thiếp vàng, 8 long ngai bằng gỗ của thời Nguyễn, 12 sắc phong chất liệu giấy… Hàng năm, từ ngày 30/5 đến 3/6 âm lịch, tại đình Trà Cổ diễn ra nhiều hoạt động lễ hội truyền thống. Đây là một lễ hội có quy mô lớn, tiêu biểu cho loại hình lễ hội dân gian trên địa bàn thành phố Móng Cái nói riêng và của cả nước nói chung. Nét độc đáo của lễ hội đình Trà Cổ là lễ rước thần trên biển và hội thi “Ông voi” (Cuộc thi giữa 12 chú lợn được 12 ông đám chăm sóc, nuôi lớn). Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2053 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích thương cảng Vân Đồn

Thành lập năm 1149, Vân Đồn trở thành thương cảng đầu tiên của nước Đại Việt. Trang Vân Đồn trở thành đơn vị hành chính cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính cấp địa phương. Để bảo vệ an ninh quốc gia, triều đình quy định, tàu thuyền nước ngoài, dù xa hay gần, đã vào cảng đều phải neo ở Vân Đồn, không được tiến sâu vào nội địa. Người nước ngoài chỉ được phép buôn bán ở một số địa điểm nhất định và chịu sự kiểm soát của nhà nước. Nhà Lý (1009-1225) đưa ra nhiều chính sách khuyến khích ngoại thương nên giao thương tại Vân Đồn phát triển. Hàng hóa theo tàu nước ngoài xuất đi chủ yếu là trầm hương, ngọc trai, ngà voi, vỏ quế, sừng tê giác, vàng, bạc, đồng, diêm tiêu, hải sản biển… Hàng hóa nước ngoài nhập vào là gấm vóc. Chỉ nhà nước đảm trách hoạt động ngoại thương, tư nhân không được tham gia. Đến thời nhà Trần (1225-1400), thị trường hương liệu thế giới sôi động, sự phát minh ra con đường hàng hải xuyên biển từ Trung Quốc đến Ai Cập đã đẩy nhịp độ buôn bán quốc tế phát triển mạnh hơn. Buôn bán ở thương cảng Vân Đồn tấp nập, mở rộng với nhiều nước như Nhật Bản, Mông Cổ, Philippines và châu Âu. Việc trấn giữ, quản lý ngoại thương vùng Vân Đồn được vua Trần giao cho các thân vương, đại thần trọng chức. Nổi bật trong số đó là Nhân huệ vương Trần Khánh Dư. Lúc này Vân Đồn được bảo vệ chặt chẽ. Rào gỗ được dựng lên quanh những nơi buôn bán và bãi biển xung yếu của đảo. Trần Khánh Dư còn ngăn chặn quân Trung Quốc trà trộn vào bằng cách cho quân trang Vân Đồn đội nón Ma Lôi, loại nón được sản xuất từ hương Ma Lôi, Hồng Lộ (nay là Hải Dương) để dễ dàng nhận ra quân Đại Việt. Vì phần lớn người Vân Đồn làm nghề buôn nên cách ăn mặc đều giống người phương Bắc. Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại: “Nhiều đoàn thương thuyền trước đây vào các cửa biển Tha, Viên ở châu Diễn, nay phần nhiều tụ tập ở Vân Đồn”. Không chỉ mở rộng về địa giới hành chính, Vân Đồn từ trang được nâng lên thành một trấn, lập vào thời Trần Dụ Tông (1345), thuộc lộ Hải Đông, sau đổi là lộ An Bang. Triều Trần đặt quan cai quản Vân Đồn như một trọng trấn gồm có quan Trấn (võ tướng nắm giữ), quan Lộ (văn quan nắm giữ) và quan Sát hải sứ (quan kiểm soát mặt biển), đặt ở đây một đội quân riêng gọi là quân Bình Hải, có nhiệm vụ tuần tra bảo bảo vệ vùng biển Đông Bắc, kiểm soát an ninh hoạt động ngoại thương. Ngoài việc buôn bán, các vua Trần còn cho xây dựng nhiều chùa tháp với quy mô lớn như chùa Lấm, chùa Trong, chùa Cát, Bảo Tháp… ở xã Thắng Lợi để đáp ứng nhu cầu tôn giáo cho cư dân và khách buôn nước ngoài sùng bái đạo Phật. Nhà Lê sơ (1428-1527) sau khi giành được độc lập đã thi hành nhiều chính sách khắt khe đối với ngoại thương. Triều đình quy định rất rõ hoạt động ở thương cảng Vân Đồn trong bộ Quốc triều hình luật (thường gọi là luật Hồng Đức). Theo đó, các quan ty tự ý ra Vân Đồn đều bị xử tội đồ hay lưu; người tố cáo việc ấy được hưởng một tư (điều 612). Điều 615 luật Hồng Đức chỉ rõ: “Người ở trang Vân Đồn chở hàng hóa lên kinh thành bán và khi trở về không có giấy phép của An Phủ ty và giấy khám đạc của Đề Bạc ty thì bị biếm một tư, phạt 100 quan tiền; thưởng người tố cáo một phần ba số tiền phạt. Nếu tự ý đem hàng hóa đến bán ở các nơi làng xã ngoài kinh thành thì xử biếm ba tư, phạt 200 quan tiền. An Phủ ty, Đề Bạc ty vô tình không biết thì xử biếm một tư; cố ý dung túng thì biếm một tư và bãi chức”. Thuyền bè ngoại quốc muốn đến trang Vân Đồn buôn bán, muốn đậu lại lâu đều phải làm giấy trình An Phủ ty, nếu trang chủ không trình mà tự ý cho ở lại thì bị phạt tiền 200 quan. Do việc kiểm soát ngặt, hoạt động thương mại ở Vân Đồn sút kém hơn thời Lý, Trần nhưng vẫn chiếm vị trí quan trọng dưới thời Lê. Đến thời nhà Mạc (1527-1677), với chính sách mở cửa về thương mại, hoạt động ngoại thương tại thương cảng Vân Đồn lại hưng thịnh. Nhà Mạc còn cho xây dựng chùa ở Vụng huyện, xã Thắng Lợi, xây thành lũy ở Cẩm Phả, Hoành Bồ để phòng thủ đất nước. Thời Lê trung hưng (1533-1789), hoạt động giao thương ở Vân Đồn vẫn được phát triển. Ngoài việc buôn bán, nhà Lê còn quan tâm xây dựng đình làng để làm nơi sinh hoạt văn hoá tâm linh cho cư dân biển đảo như đình Cái Làng, đình Cống Cái, xã Quan Lạn. Cuối thế kỷ 17, Kẻ Chợ (Thăng Long), Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam) mở cửa cho thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Anh… được vào sâu trong nội địa buôn bán. Thương cảng Vân Đồn mất hẳn vai trò trung tâm thương mại. Hoạt động ngoại thương vẫn diễn ra, nhưng không còn sầm uất. Bước sang đầu thế kỷ 19 thời nhà Nguyễn, thương cảng Vân Đồn không còn hoạt động. Cư dân trên một số bến cổ di chuyển đi nơi khác, kho tàng bến bãi dần bị hỏng. Các bến thuyền thương mại chuyển thành bến phục vụ nhu cầu đánh cá, trao đổi lâm, hải sản đến các nơi khác trong nước của nhân dân địa phương. Trải qua thời gian và sự bồi lắng của biển cả, diện mạo sầm uất của khu thương cảng Vân Đồn xưa không còn. Hiện nay, trong lòng đất trên bờ vụng tại các bến thuyền cổ vẫn còn hàng triệu mảnh sành sứ vỡ hay nguyên vẹn, nền nhà, nền đình, nền chùa, tiền đồng cổ trong suốt 7 thế kỷ. Vân Đồn là thương cảng đầu tiên của nước Đại Việt, không chỉ hoạt động đơn tuyến với chỉ một bến cảng duy nhất mà là một hệ thống các bến bãi, vụng đỗ tàu liên đới với nhau. Trung tâm của thương cảng có phạm vi 200km2, ở vùng vịnh Bái Tử Long, thuộc địa bàn xã Thắng Lợi, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn. Vùng Cống Đông - Cống Tây (xã đảo Thắng Lợi, huyện Vân Đồn) là trung tâm một thời của thương cảng Vân Đồn. Suốt gần 7 thế kỷ, thương cảng Vân Đồn đông đúc tàu buôn đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Mông Cổ, Philippines và châu Âu. Hàng hóa theo tàu nước ngoài xuất đi chủ yếu là trầm hương, ngọc trai, ngà voi, vỏ quế, sừng tê giác, vàng, bạc, đồng, diêm tiêu, hải sản... Hàng hóa nước ngoài nhập vào là gấm vóc. Trải qua thời gian và sự bồi lắng của biển cả, diện mạo sầm uất của thương cảng Vân Đồn xưa không còn. Hiện trong lòng đất, trên bờ vụng tại các bến thuyền cổ vẫn còn hàng triệu mảnh sành sứ, nền nhà, nền đình, nền chùa, tiền đồng cổ. Với những giá trị lịch sử, thương cảng Vân Đồn đã được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) cấp bằng xếp hạng di tích lịch sử ngày 29/10/2003. Ngày 24/10/2023, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1225/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt đối với Di tích lịch sử quần thể Thương cảng Vân Đồn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2305 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô

Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô trước đây được lấy tên là “Di tích lịch sử những địa điểm lưu niệm Hồ Chủ tịch trên đảo Cô Tô”, còn người dân thường gọi thân thương là di tích Bác Hồ. Đây là một di tích đặc biệt, mang giá trị riêng có, không trùng lặp với di tích nào trong hệ thống di tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước. Di tích nằm ở phía Tây Nam của đảo Cô Tô, nay thuộc các khu 1, 2, 3, thị trấn Cô Tô. Theo hồ sơ di tích, sau sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Vùng mỏ và cho phép tỉnh Hải Ninh (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) dựng tượng Người trên đảo Cô Tô (tháng 1 năm 1962), Ủy ban Hành chính Hải Ninh quyết định dựng tượng Bác và xây dựng Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô để lưu niệm sự kiện Bác Hồ thăm đảo Cô Tô ngày 9/5/1961. Khu di tích này gồm 5 điểm di tích: Điểm di tích tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, điểm di tích đền thờ, điểm di tích Dốc Khoai, điểm di tích nhà trưng bày lưu niệm và điểm di tích cánh đồng muối. Bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô đầu tiên là tượng bán thân bằng xi măng, được xây dựng và khánh thành vào năm 1968. Năm 1976, tượng bán thân được thay thế bằng tượng toàn thân, chất liệu bê tông cốt thép. Năm 1996, Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Sở Văn hóa - Thể thao) tiến hành nâng cấp tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô trên cơ sở giữ nguyên mẫu tượng toàn thân nhưng chuyển thể chất liệu từ bê tông cốt thép sang chất liệu đá granit để đảm bảo tính bền vững của công trình. Công trình được hoàn thành vào ngày 12/5/1997. Phía sau tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh là bia ghi dấu sự kiện Bác Hồ thăm đảo Cô Tô ngày 9/5/1961. Tượng Bác và bia ghi dấu sự kiện được dựng ngay tại vị trí năm xưa máy bay trực thăng chở Bác ra thăm Cô Tô hạ cánh. Theo sử sách, trong chuyến thăm đảo Cô Tô, khi đi qua khu ruộng trồng khoai, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn xem năng suất, chất lượng giống khoai bà con trồng trên đảo, đồng chí Hoàng Chính, Bí thư Tỉnh ủy Hải Ninh đã bới thử một bụi khoai để Bác xem. Nhà trưng bày lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô là công trình được cải tạo (những năm 1970) từ trụ sở Ủy ban Hành chính xã Cô Tô trước đây. Đây là nơi trưng bày một số hiện vật về các thời kỳ lịch sử của huyện đảo Cô Tô, đặc biệt là các hiện vật liên quan đến Bác Hồ. Di tích trở thành điểm nhấn có ý nghĩa lớn về chính trị, có giá trị lớn nhiều mặt về cảnh quan, văn hóa - lịch sử và thẩm mỹ trên vùng biển Đông Bắc Tổ quốc. Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô là “cột mốc văn hóa” trường tồn, là “cột mốc chủ quyền” của Việt Nam trên vùng biển đảo, là di sản quốc gia quý báu cần được bảo tồn, tôn vinh giá trị lịch sử, văn hóa tiêu biểu độc đáo của di tích gắn với việc giáo dục truyền thống, lịch sử của dân tộc. Đồng thời còn là tài sản đặc biệt, là động lực để Cô Tô thay đổi, chuyển mình, hướng đến là một vùng kinh tế biển năng động, thu hút các nhà đầu tư cũng như du khách trong nước và quốc tế đến với Cô Tô. Tượng Bác trên đảo Cô Tô là công trình mang giá trị nghệ thuật tạo hình cao, có một vị trí rất đặc biệt trong hệ thống tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh ở trong và ngoài nước, là bức tượng Bác Hồ đầu tiên và đẹp nhất của vùng Đông Bắc. Bên cạnh giá trị nghệ thuật tạo hình, di tích còn có giá trị cảnh quan danh thắng hài hòa, được xây dựng trên một địa thế khá đẹp, phong thủy hữu tình, nhìn ra bãi biển vịng Cô Tô kín gió, bãi cát trắng mịn trải dài quanh co. Một bãi tắm lý tưởng. Một vụng đỗ tàu thuyền kín gió mỗi khi có gió bão. Trải qua quá trình hơn 50 năm hình thành và phát triển, di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô luôn được các cấp có thẩm quyền và toàn thể nhân dân quan tâm, đầu tư các nguồn lực cho công tác quy hoạch, tu bổ, tôn tạo. Từ khi được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia đến nay, một số hạng mục của Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô được bảo tồn khá nguyên trạng. Đầu năm nay, di tích được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Nguồn: Báo Quảng Ninh điện tử

Quảng Ninh 2802 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích Lịch sử Đền Cửa Ông

Đền Cửa Ông (còn gọi là Đông Hải linh từ hay đền Đức Ông) nằm trên địa bàn phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đền thờ thần chủ là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, ngoài ra còn phối thờ Cửu Thiên Vũ Đế Quốc Phụ Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương cùng gia thất và các tướng lĩnh của Ngài. Qua sử sách ghi chép có thể khẳng định đền Cửa Ông được khởi dựng, tồn tại qua hơn 100 năm. Lúc khởi dựng, đền chỉ là một thảo am nhỏ làm bằng tranh, tre, lứa lá; năm 1907 – 1916, đền được trùng tu lại; năm 1916, xây thêm đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, chùa; năm 1946, đền Hạ, đền Thượng tiếp tục được tu bổ, tôn tạo; năm 2014, quy hoạch tổng thể khu di tích Đền Cửa Ông được phê duyệt với diện tích 18,125 ha; đến năm 2016, đền Trung được xây dựng và hoàn thành vào năm 2017. Ngoài ra, còn có đền Cặp Tiên (nhân dân gọi là đền “Cô bé Cửa Suốt”) được tạo dựng vào thời Nguyễn. Đền Cửa Ông lúc đầu khởi dựng chỉ thờ Trần Quốc Tảng, sau khi xây thêm các khu đền Hạ, đền Trung và đền Thượng, chùa Cẩm Sơn... cụ thể như sau: Khu vực đền Hạ: gồm đền Mẫu và đền Trung Thiên Long Mẫu Đền Mẫu: thờ tam tòa Thánh Mẫu (Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng ngàn, Mẫu Thoải phủ), Ngọc hoàng thượng đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, Tứ vị chầu bà, Ngũ vị tôn ông, ông Hoàng Mười, ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Bẩy. Đền Trung Thiên Long Mẫu: thờ Trung Thiên Long Mẫu và phối thờ ba cô, cậu bé Cửa Suốt, cô bé Cửa Suốt (hai vị giống như Kim Đồng, Ngọc Nữ, tượng trưng cho âm và dương luôn theo hầu bảo hộ mẫu, bảo vệ vùng đất, vùng biển Cửa Suốt, bảo vệ ngôi đền mà Trung Thiên Long Mẫu tọa lạc). Hiện, đền Cửa Ông còn lưu giữ đạo sắc phong cho xã Cẩm Phả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên, phụng thờ Trung Thiên Long Mẫu tôn thần, ghi ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 2 (1917). Bia đá ở đền Hạ dựng vào năm Mậu Tý (1948). Khu vực đền Trung: thờ Khâm Sai Đông Đạo Tiết Chế Hoàng Cần, người có công dẹp giặc ngoại xâm phương Bắc, trấn giữ vùng biển Đông. Tại đây, còn thờ Sơn thần, Thủy thần vì đền Trung nằm trên dãy núi Cẩm Sơn, phía trước là biển Đông, người dân ở khu vực cửa biển cũng như thuyền bè qua lại đều cầu mong sự phù trợ, giúp sức của các vị Sơn thần, Thủy thần. Khu vực đền Thượng: gồm đền Thượng, đền Quan Châu, đền Quan Chánh, chùa và lăng mộ Trần Quốc Tảng. Đền Thượng: thờ thần chủ là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, ngoài ra còn phối thờ Cửu Thiên Vũ Đế Quốc Phụ Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương cùng gia thất và các tướng lĩnh của Ngài. * Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng (1252 - 1313) Ông là vị anh hùng dân tộc, con trai thứ 3 của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Hiện nay, một số sắc phong cho Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng vẫn còn được lưu giữ tại đền khẳng định công trạng của Ông, cũng như lịch sử hình thành, tồn tại của đền Cửa Ông. Ngoài thần tích, thần sắc, sắc phong ghi chép về Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, tại đền Cửa Ông còn lưu giữ được bia đá, biển gỗ, hoành phi, câu đối mà qua đó đã xác định được thần chủ chính của đền là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng. * Đồng thời, tại đền Thượng còn phối thờ các nhân vật lịch sử như: - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn: Hưng Đạo Đại Vương sau khi giúp nhà Trần đánh đuổi giặc Nguyên xâm lược, trừ đại họa cho dân tộc, được nhân dân sùng kính, sau khi mất trở thành Thượng Tiên Cửu Thiên Vũ Đế. - Tướng công Phạm Ngũ Lão; Dã Tượng; Yết Kiêu; Nguyễn Khoái; Huyền Du; Cao Mang; Đỗ Hành; Hưng Vũ vương Nghiễn, Hưng Trí vương Hiện, Hưng Hiến vương Uất; Trần Bình Trọng; Phạm Ngộ; Trần Thì Kiến; Trần Quang Triều; Trần Quốc Toản; Hà Đặc; Trương Hán Siêu; Lê Phụ Trần; Nguyễn Địa Lô; Trần Khánh Dư; Đỗ Khắc Chung; Vi Hùng Thắng; Nguyễn Chế Nghĩa; Thánh Mẫu Thiên Thành (Nguyên Từ Quốc Mẫu); Quyên Thanh công chúa (Vương Cô Đệ Nhất); Đại Hoàng công chúa; Thuận Thánh (Bảo từ Hoàng hậu) Đền Quan Chánh: thờ Quan Chánh, Quan Tuần Tranh và Quan Giám Sát. Đền Quan Châu: thờ Quan Tri Châu cai quản khu vực châu Cẩm Phả. Lăng Mộ: căn cứ vào thần tích, thần sắc làng Cẩm Phả, tổng Cẩm Phả, huyện Cẩm Phả, tỉnh Quảng Yên, chép vào năm 1938, thì lăng mộ Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng chỉ mang tính tượng trưng, là nơi thể hiện lòng thành kính của nhân dân đối với Ngài, cũng như của người con đối với người cha. Chùa: thờ Phật, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu,Quan Âm Tống Tử, Tuệ Trung thượng sĩ, Đức Chúa Ông, Đức Thánh Hiền...như các ngôi chùa truyền thống khác của Việt Nam. Đền Cặp Tiên: thờ một vị tiểu thư - con gái của Trần Quốc Tảng (còn gọi là “Cô bé Cửa Suốt”), quan Chánh và các vị nhân thần, sau đó lại thờ thêm Phật, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Tiên Thiên Thánh Mẫu. Các thần tích, thần sắc, sắc phong cho các vị thần còn được lưu giữ tại đền Cửa Ông trở thành kho tư liệu lịch sử quý giá cho các thế hệ con cháu tìm hiểu về quá trình dựng nước và giữ nước của triều Trần. Khu di tích đền Cửa Ông đã trải qua các cuộc chiến tranh và thăng trầm của lịch sử, nhưng vẫn bảo lưu được nhiều kiến trúc cổ kính (tường hồi hai bên ống muống và Hậu cung) và các pho tượng cổ có niên đại từ thế kỷ XIX. Với giá trị đặc biệt trên, Di tích lịch sử Đền Cửa Ông đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 25/12/2017. Nguồn: Cục di sản văn hoá

Quảng Ninh 5227 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu Di tích Nhà Trần tại Đông Triều

Khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều thuộc các xã An Sinh, Tràng An, Bình Khê, Thủy An. Hiện nay đây là khu di tích lưu giữ nhiều dấu ấn nhất của nhà Trần hiển hách. Năm Ất Dậu 1225 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, đánh dấu sự chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần. Từ đây nhà Trần trị vì đất nước trong 175 năm, với 12 đời vua, đã tạo nên triều đại hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước ta. Triều Trần (1225 – 1400) với võ công, văn trị, đã mở ra kỷ nguyên hào hùng trong lịch sử dựng và giữ nước. Theo tư liệu, vùng Đông Triều chính là đất tụ cư đầu tiên của họ Trần. Sau đó, vùng đất này được vua Trần Thái Tông ban cho anh trai Trần Liễu làm ấp thang mộc. Đối mới mỗi triều đại khi trị vì đều quan tâm đến hai vấn đề, duyên trạch là vùng đất định đô, âm trạch là nơi đặt thái miếu lăng tẩm. Bên cạnh Thăng Long tiếp tục được lựa chọn làm kinh đô, thì nhà Trần cũng cho xây dựng và phát triển hai trung tâm văn hóa, hai khu sơn lăng ở phía đông và nam kinh thành. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định Đông Triều là trung tâm văn hóa tín ngưỡng lớn, cùng với Thăng Long – trung tâm chính trị, kinh tế và Thiên Trường Long Hưng, nơi phát tích của nhà Trần. Tên cổ của Đông Triều là An Sinh, đến đời vua Trần Dụ Tông mới đổi tên, và trở thành khu di tích lịch sử nhà Trần hiện nay. Đây là khu di tích quốc gia đặc biệt gồm lăng mộ, đền, chùa, am tháp với 14 di tích trải rộng. Đây là vùng thánh địa linh thiêng mang đậm tinh thần lịch sử, văn hoá là nơi quê gốc nhà Trần. Từ thế kỷ 13, nhà Trần cho xây dựng Thái Miếu, thờ tự Tam tổ thánh Trần, là điểm di tích quan trọng bậc nhất. Đến cuối thế kỷ 14, nhiều lăng mộ vua Trần mới được di chuyển về Đông Triều. Khu di tích lịch sử nhà Trần bao gồm 3 nhóm, nhóm di tích đình miếu, nhóm di tích lăng tẩm và nhóm di tích chùa tháp. Đền miếu và lăng tẩm gắn với tông miếu của nhà Trần. Cùng với việc xây dựng lăng mộ, triều Trần còn xây dựng đền miếu để thờ cúng các bậc tiền đế, chùa chiền cũng theo đó mọc lên không ít. Nhưng khi ấy Đông Triều chỉ đóng vai trò khu sơn lăng, chưa trở thành trung tâm Phật giáo của Đại Việt. Phải đến khi vua Trần Nhân Tông xuất gia lên núi Yên Tử tu hành và sáng lập nên dòng thiền phái Trúc Lâm. Ông đã thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối. Vào thời kỳ này, Đông Triều trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các đời vua Trần đã cho xây dựng ở đây hệ thống đền miếu, lăng mộ, chùa tháp dày đặc trong vùng cảnh quan có diện tích rộng lớn trải dài lên tận sườn núi Yên Tử. Chùa Ngọa Vân Hồ Thiên là nơi Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông đăng đàn thuyết pháp, cũng là nơi gắn liền với sự nghiệp hoằng hóa Phật Giáo của nước Đại Việt, đào tạo những vị sư ở cấp độ cao hơn. Trên chùa Hồ Thiên còn có ngọn tháp đá 7 tầng mà đến nay kiến trúc của ngôi tháp vẫn là bí ẩn đối với các nhà nghiên cứu, thu hút nhiều nhà nghiên cứu, người yêu thích lịch sử khắp nơi tìm đến tham quan, nghiên cứu. Chùa Quỳnh Lâm được coi là trường đại học Phật giáo đầu tiên của Việt Nam, sở hữu tượng Phật một trong An Nam tứ đại khí. Vườn tháp trong chùa và tháp đá mộ các thiền sư có kiến trúc độc đáo, một di sản văn hoá tiêu biểu không chỉ của tỉnh Quảng Ninh mà là của cả Việt Nam. Trải qua thời gian, thiên tai hủy hoại, chiến tranh tàn phá, nhiều công trình xưa ở khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều chỉ còn là phế tích. Tuy vậy những phế tích đó trong lòng người dân vẫn còn vẹn nguyên giá trị. An Sinh xưa, Đông Triều nay là nơi các vua nhà Trần thể hiện tư tưởng lá rụng về cội của dân tộc Việt. Những thứ còn hiện hữu hay cả những thứ chỉ còn trong lòng đất vẫn là di sản vượt thời gian không chỉ mang giá trị lịch sử của vương triều vang danh mà còn là minh chứng cho 700 năm tồn tại của nền Phật giáo thuần Việt. Nguồn: Báo du lịch Quảng Ninh

Quảng Ninh 5186 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu Di tích Lịch sử và Danh lam Thắng cảnh Yên Tử

Trong lịch sử, Yên Tử luôn là một trong những trung tâm Phật giáo của cả nước, gắn với nhiều kiến trúc cổ, được xây dựng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau (Lý, Trần, Lê, Nguyễn). Về địa lý, Yên Tử là dãy núi thấp, thuộc hệ thống cánh cung Đông Triều, một vùng địa chất được hình thành từ kỷ Đệ tứ, với các loại đá gốc, như sa thạch, sỏi kết sạn và phù sa cổ… Địa hình, địa chất phức tạp của khu vực đã kiến tạo nên các điểm cảnh quan kỳ vĩ, như thác Ngự Dội, thác Vàng, thác Bạc, cổng Trời, đường Tùng, rừng trúc, đỉnh núi Yên Tử…, nơi có những kiến trúc cổ truyền như hòa mình vào thiên nhiên hùng vĩ. Khu vực Yên Tử có tổng diện tích tự nhiên khoảng 2686 hétta, trong đó có 1736 hétta rừng tự nhiên, đặc trưng cho hệ sinh thái rừng Đông Bắc, nơi còn bảo tồn được nhiều nguồn gen động, thực vật quý hiếm... Xen kẽ với thiên nhiên là hệ thống chùa, am, tháp… Ven lối dẫn lên các chùa, am, tháp thường trồng rất nhiều tùng. Trong khu vực này hiện còn khoảng hơn 200 cây tùng đại thụ, thuộc 4 nhóm quý hiếm, được trồng cách đây khoảng 700 năm. Ngoài đường tùng cổ thụ, rừng trúc ở đây cũng nổi tiếng từ ngàn xưa... Trúc là sản phẩm độc đáo của Yên Tử, tượng trưng cho sức sống dẻo dai, vẻ đẹp thanh bạch và tao nhã của tạo hóa. Có lẽ, đó cũng chính là lý do mà Trần Nhân Tông đã chọn nơi đây để tu hành và lấy tên "rừng Trúc", tức Trúc Lâm, để đặt tên cho dòng Thiền do ông sáng lập. Hội Yên Tử là lễ hội hành hương vào mùa xuân, bắt đầu từ ngày 10 tháng Giêng hằng năm và kéo dài suốt 3 tháng mùa xuân. Khu vực Yên Tử bao gồm một số địa điểm và kiến trúc Phật giáo chính như: 1. Chùa Bí Thượng xưa được khởi dựng từ thời Hậu Lê, trên mặt nền kiến trúc hình chữ Nhất, từng được trùng tu, tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Thờ Thập bát La Hán. 2. Chùa Suối Tắm Được dựng dưới chân núi, sát bên bờ suối Tắm. 3. Chùa Cầm Thực Nằm về bên trái con đường vào Yên Tử. 4. Chùa Lân và Chùa Giải Oan đều được dựng từ thời Trần. 5. Cụm tháp Hòn Ngọc nằm trên một gò đất khá rộng, bằng phẳng, gồm ba tháp đá và một tháp gạch. 6. Vườn tháp Huệ Quang nay chỉ còn 64 ngọn tháp và mộ, trong đó có 40 tháp mới được trùng tu năm 2002, 11 tháp đá, 13 tháp gạch, một số ngôi tháp đã bị đổ chỉ còn lại dấu tích. 7. Chùa Hoa Yên được dựng từ thời Lý và được tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Chùa tọa lạc trên lưng chừng núi, quay hướng Tây Nam. 8. Am Thiền Định xưa vốn là một ngôi tháp cổ đặc biệt ở Yên Tử, đứng đơn lẻ một mình, phía sau chùa Hoa Yên. Tháp xây bằng gạch đỏ tráng men xanh, bề mặt đúc nổi nhiều hoa văn và mặt thú lạ. 9. Chùa Một Mái nằm nép mình bên sườn núi cao. Một nửa chùa ẩn sâu trong hang núi, nửa còn lại phô ra bên ngoài và chỉ có một mái. 10. Am Thung và Am Dược hiện nay chỉ còn là các phế tích. 11. Chùa Bảo Sái nằm trên sườn núi, quay hướng Tây Nam. 12. Chùa Vân Tiêu toạ lạc trên sườn núi. Hai bên chùa có 2 dãy núi cao, tạo thành thế tay ngai bao bọc lấy chùa. Bên phải chùa có một dòng suối. 13. Chùa Đồng nằm trên đỉnh cao nhất của núi Yên Tử, được đúc từ chất liệu đồng. Những giá trị lịch sử - văn hóa đặc biệt của khu di tích đã đưa Yên Tử trở thành một chốn thiêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Để khẳng định giá trị đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Yên Tử là di tích quốc gia đặc biệt ngày 27/09/2012). Nguồn: Cục di sản văn hoá

Quảng Ninh 5410 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích Lịch sử Bạch Đằng

Di tích Lịch sử Bạch Đằng nằm trên địa bàn Thị xã Quảng Yên và thành phố Uông Bí. Đây là địa điểm ghi dấu sự kiện quân và dân nhà Trần đã lập nên chiến thắng lẫy lừng - Chiến thắng Bạch Đằng, đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông năm 1288. Trong lịch sử giữ nước của dân tộc ta, sông Bạch Đằng đã ba lần chứng kiến quân và dân ta chiến thắng oanh liệt quân xâm lược phương Bắc hùng mạnh đều bằng các cây cọc gỗ cắm xuống lòng sông Bạch Đằng. Đó là chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền; năm 981 của Lê Hoàn và đỉnh cao là chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Sông Bạch Đằng đã trở thành dòng sông lịch sử, cọc Bạch Đằng đã trở thành biểu tượng truyền thống đánh giặc ngoại xâm bằng đường thủy của dân tộc Việt Nam. Trải qua hơn 700 năm do phù xa của sông bồi đắp, bãi cọc nằm sâu dưới các lớp bùn đất, mãi đến năm 1953 nhân dân đi đào đất đắp đê đã phát hiện ra những cây cọc Bạch Đằng. Lúc đầu người dân chưa có kiến thức và ý thức bảo vệ di sản văn hóa rất nhiều cọc đã bị nhổ lên làm xà nhà, cọc rơm. Sau nhiều lần khai quật, các nhà khảo cổ phát hiện hàng trăm chiếc cọc chủ yếu là gỗ lim, táu dài 2,6 đến 2,8 m, đường kính 20 đến 30 cm được cắm thẳng. Khoảng cách giữa các cọc trung bình từ 0,9 m đến 1,5 m. Khu di tích bãi cọc Bạch Đằng (gồm bãi cọc Yên Giang, bãi cọc Đồng Vạn Muối, bãi cọc Đồng Má Ngựa). Di tích bãi cọc Yên Giang diện tích khoảng 3.000m2 nằm ở cửa sông Chanh có hình chữ nhật dài khoảng 120m, chiều rộng khoảng 20m. Bãi cọc Yên Giang được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt vào năm 2012. Sau đó, di tích được khoanh vùng bảo vệ, dựng bia giới thiệu, tôn tạo đường vào tạo điều kiện thuận lợi cho du khách tham quan. Đây cũng là địa chỉ để các em học sinh đến tìm hiểu lịch sử, phục vụ việc học tập. Hiện bãi cọc Yên Giang còn khoảng trên 300 cây nằm trong lòng đất. Ở khu di tích, bãi cọc được bơm nước đầy mặt ao để bảo tồn. Gần bãi cọc Yên Giang là bãi cọc đồng Vạn Muối diện tích khoảng 6.000m2 nằm ở cửa sông Rút, thuộc phường Nam Hòa được nhân dân Quảng Yên phát hiện trong quá trình canh tác, đào ao. Sau lần khảo sát và khai quật năm 2005. Các cuộc khai quật khảo cổ học sau đó tìm thấy tổng cộng gần 200 cọc, cho thấy những cọc gỗ cắm đứng và cắm xiên trong khu vực đồng Vạn Muối thuộc nhiều loại gỗ được sử dụng cả thân và cành. Đường kính mỗi cọc từ 7 - 10 cm, phần được vạt nhọn chỉ khoảng 25 - 30 cm. Tuy nhiên, mật độ cọc ở đây được cắm rất dày, phổ biến cách nhau từ 40 - 60 cm, một số cọc chỉ cách nhau từ 10 - 30cm. Theo các nhà nghiên cứu, đây là nửa phía Nam của trận địa cọc Bạch Đằng, còn nửa phía Bắc là bãi cọc Yên Giang. Do giữa hai bãi cọc có một dải cồn đá cao, khi nước triều xuống thuyền không qua được buộc phải đi vào sát bờ. Vì vậy, Trần Hưng Đạo đã chọn vị trí cắm cọc ở hai bên cồn đá tạo thành một phòng tuyến hình chữ V bịt chặt lấy họng sông Bạch Đằng để chặn đường rút lui của quân địch tạo nên chiến thắng vẻ vang của trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288. Bãi cọc sau đó được vùi lấp dưới lớp bùn để được bảo quản tốt hơn. Cũng trong địa phận phường Nam Hòa, thị xã Quảng Yên, bãi cọc đồng Má Ngựa diện tích khoảng 2.100m2 đã được phát hiện và tiến hành khảo sát, khai quật vào năm 2010. Đây là bãi cọc thứ ba thuộc bãi cọc Bạch Đằng nằm ở cửa sông Kênh, cách bãi cọc đồng Vạn Muối khoảng 1 km về hướng Nam. Bãi cọc có chiều dài 70 m, rộng 30 m, cắm cọc thuộc nhiều loại gỗ có đường kính từ 6 - 22 cm dày đặc thành dải như một lớp tường thành. Ba bãi cọc Yên Giang, Đồng Vạn Muối và Đồng Má Ngựa đã làm thành những bãi chông ngầm lớn, phức tạp, kín đáo dưới mặt nước khóa chặt đường tháo lui ra biển, giúp tiêu diệt và bắt sống 600 chiến thuyền với 4 vạn binh tướng quân Nguyên – Mông trong lần thứ ba chúng xâm lược nước ta năm 1288. Ngày nay, khu di tích bãi cọc Bạch Đằng ở thị xã Quảng Yên đã được đắp bờ bao bảo vệ xung quanh. Một số cọc đã được lấy lên và những cọc còn lại được bảo tồn trong hố trưng bày tại chỗ. Tuy nhiên, những cọc Bạch Đằng ở di tích này đa số phần đầu cọc nhô lên đã bị mục gẫy, phần thân cọc vẫn cắm dưới bùn đất nhưng đây lại là chứng tích vô cùng quan trọng của trận chiến lịch sử trên dòng sông Bạch Đằng năm 1288. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định xếp hạng Khu di tích lịch sử Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 là Di tích Quốc gia đặc biệt. Lễ hội Bạch Đằng diễn ra từ ngày 6-9/3 âm lịch với nhiều nghi lễ trang nghiêm và các hoạt động lễ hội phong phú, được tổ chức tại tất cả các điểm trong khu di tích. Nhằm tôn vinh giá trị ngày đại thắng của dân tộc ta và tưởng nhớ những người đã hy sinh trong các trận chiến Bạch Đằng. Nguồn: Báo điện tử Quảng Ninh

Quảng Ninh 5646 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Vịnh Hạ Long

Theo các nhà khoa học, vùng Hạ Long và vùng rìa bờ, đảo phụ cận của vịnh, bao gồm nhiều hệ tầng trầm tích lục nguyên và cacbonat, có tuổi từ nguyên đại Cổ sinh đến Tân sinh. Nhiều hệ tầng trầm tích ở khu vực này chứa đựng các vết tích cổ sinh vật dưới các dạng hoá thạch khác nhau, trong đó có những nhóm ngành động, thực vật đã tuyệt diệt hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn trên trái đất. Lịch sử địa chất Vịnh Hạ Long, được mở ra từ khoảng gần 500 triệu năm trước đây, với những hoàn cảnh cổ địa lý hết sức khác nhau và khá phức tạp. Sự hiện diện của vịnh và những hòn đảo trên vịnh là những minh chứng độc đáo về lịch sử phát triển của trái đất, bao gồm đặc điểm địa chất và quá trình vận động, phát triển liên tục của dạng địa hình Karst, hệ Fengcong và Fengling. Địa hình đặc biệt của vịnh Hạ Long có liên quan chặt chẽ tới lịch sử khí hậu và quá trình vận động kiến tạo của trái đất. Những hòn đảo ở đây là mẫu hình khá lý tưởng về Karst hình thành trong điều kiện nhiệt đới, ẩm. Toàn bộ khu vực Vịnh Hạ Long là một cảnh quan Karst qua nhiều triệu năm, với các tháp Karst hình chóp, hình tháp, bị bào mòn, tạo nên cảnh đẹp nổi bật, độc đáo toàn thế giới. Thạch nhũ trong hang động trong khu Vịnh có tuổi trẻ hơn các hang động. Nước mưa theo các khe nứt trên trần hang động và vách chảy xuống, trên đường đi chúng hoà tan, bào mòn đá vôi và lắng đọng thành nhũ đá ở trần, măng đá ở nền… Hàng ngàn hòn đảo, hàng chục hang động đẹp đã tạo nên giá trị thẩm mỹ của Vịnh. Vẻ đẹp của Hạ Long được tạo nên từ 3 yếu tố: đá, nước và bầu trời. Hệ thống đảo đá ở Hạ Long muôn hình vạn trạng quyện với trời biển, tạo ra một bức tranh thủy mặc. Phía trong những đảo đá lớn lại hấp dẫn bởi những hang động đẹp đẽ, kỳ lạ. Hang Đầu Gỗ gợi cảm giác choáng ngợp, với những nhũ đá muôn hình dáng vẻ. Động Thiên Cung như một đền đài hoành tráng, mỹ lệ. Hang Bồ Nâu có cửa uốn vòng cung, với vô số nhũ đá buông xuống mềm mại như cành liễu. Hang Sửng Sốt đẹp đến bất ngờ, với nhũ đá mang hình hài của gà rừng, cóc, rồng, thác nước, cùng với nhiều hình hài khác, như mở ra một thế giới cổ tích. Những hang động như Tam Cung, Trinh Nữ, Ba Hang, Tiên Long,… mỗi hang có những vẻ đẹp độc đáo, kỳ thú. Lịch sử kiến tạo của vịnh Hạ Long đã trải qua những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau, nhiều lần tạo sơn, biển thoái, sụt chìm, biển tiến… Vịnh Hạ Long còn giữ lại được những dấu ấn của quá trình tạo sơn, địa máng vĩ đại của trái đất, có cấu tạo địa lũy, địa hào cổ. Khu vực Vịnh Hạ Long đã từng là biển sâu vào các kỷ Odovic - Silua (khoảng 500 - 410 triệu nẳm trước), là biển nông vào các kỷ Cacbon - Pecmi (khoảng 340 - 250 triệu năm trước), biển ven bờ vào cuối kỷ Paleogen, đầu Neogen (khoảng 26 - 20 triệu năm trước) và trải qua một số lần biển lấn trong kỷ Nhân sinh (khoảng 2 triệu năm trước). Vào kỷ Trias (240 - 195 triệu năm trước), khi trái đất nói chung, châu Âu nói riêng có khí hậu khô nóng, thì khu vực Vịnh Hạ Long là những đầm lầy ẩm ướt, với những cánh rừng tuế, dương xỉ khổng lồ tích tụ nhiều thế hệ… Địa hình Karst của vịnh Hạ Long có ý nghĩa toàn cầu và có tính chất nền tảng cho khoa học địa mạo. Môi trường địa chất còn là nền tảng phát sinh các giá trị khác của vịnh, như đa dạng sinh học, văn hóa khảo cổ và các giá trị nhân văn khác. Tổng số loài thực vật sống trên các đảo ở vịnh Hạ Long khoảng trên một nghìn loài. Một số quần xã các loài thực vật khác nhau đã được tìm thấy, như các loài ngập mặn, các loài thực vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi hoặc mọc ở cửa hang hay khe đá. Các nhà nghiên cứu của Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên Thế giới (IUCN) đã phát hiện 7 loài thực vật đặc hữu của vịnh Hạ Long. Những loài này chỉ thích nghi sống ở các đảo đá vôi của Vịnh Hạ Long, mà không nơi nào trên thế giới có được, đó là: thiên tuế Hạ Long, khổ cử đại tím, cọ Hạ Long, khổ cử đại nhung, móng tai Hạ Long, ngũ gia bì Hạ Long, hài vệ nữ hoa vàng. Theo thống kê, hệ sinh thái rừng kín thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới ở Hạ Long, Bái Tử Long có: 477 loài mộc lan, 12 loài dương xỉ và 20 loài thực vật ngập mặn; đối với động vật cũng đã thống kê được 4 loài lưỡng cư, 10 loài bò sát, 40 loài chim và 14 loài thú. Những kết quả nghiên cứu, khảo cổ học và văn hóa học cho thấy, sự hiện diện của những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã tạo lập được những hình thái văn hóa cổ đại tiếp nối nhau, bao gồm văn hóa Soi Nhụ(trong khoảng 18.000 - 7.000 năm trước Công nguyên), văn hóa Cái Bèo (7.000 - 5.000 năm trước Công nguyên) và văn hóa Hạ Long (cách ngày nay khoảng từ 3.500 - 5.000 năm). Phương thức sống chủ yếu của chủ nhân Soi Nhụ là “bắt sò ốc, có cả hái lượm hoa quả, đào củ, rễ cây”, biết bắt cá mà chưa có nghề đánh cá. Di chỉ Cái Bèo là một trong những bằng chứng đầu tiên để có thể khẳng định, tổ tiên của người Việt cổ, từ rất sớm đã đương đầu với biển khơi và đã phát triển ở đây một nền văn hóa rực rỡ, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố, sắc thái khác biệt vào một dòng văn hóa truyền thống rất lâu đời trong khu vực Việt Nam và Đông Nam Á: dòng văn hóa Cuội. Về phương thức cư trú và sinh sống của người Cái Bèo, ngoài săn bắt hái lượm, đã có thêm khai thác biển. Vịnh Hạ Long là khu vực có giá trị nổi bật toàn cầu, tiêu biểu nhất là các giá trị về thẩm mỹ, khoa học, lịch sử, khảo cổ... Năm 1962, khu vực vịnh Hạ Long được công nhận là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Năm 1994, vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới về giá trị thẩm mỹ và được tái công nhận lần thứ 2, với giá trị ngoại hạng toàn cầu về địa chất - địa mạo vào năm 2000. Với những giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học và thẩm mỹ đặc biệt của vịnh, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009). Nguồn: Cục di sản văn hoá

Quảng Ninh 4482 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Núi Mằn

Quần thể di tích lịch sử danh lam thắng cảnh Núi Mằn thuộc thôn Đá Trắng, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, có diện tích 150 hét ta (bao gồm toàn bộ Núi Mằn, đền Bạch Thạch; các miếu: Thánh Mẫu, Ông Lang, Ông Dài, Ông Cộc; đình Xích Thổ; và di chỉ thành nhà Mạc). Núi Mằn có tên trong thư tịch cổ là “Bân Sơn" nghĩa là ngọn núi đẹp, hoàn thiện từ trong ra ngoài. Vì núi có dòng sông Mân chảy qua nên người dân địa phương thường gọi núi Bân là núi Mân (từ “Mằn” là đọc chệch của từ “Mân”). Theo ghi chép của Đồng Khánh dư địa chí (Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn năm 1886-1888), Hoành Bồ thời bấy giờ có nhiều núi đá đẹp như núi Bân (núi Mằn), núi Truyền Đăng, núi Hạp, núi Phượng Các… Tuy nhiên, chỉ có hai ngọn núi nổi tiếng được xếp hạng vào danh lam thắng tích thời Đồng Khánh là núi Mằn và núi Truyền Đăng (Núi Bài Thơ ngày nay). Núi Mằn nằm giữa hai nhánh suối Đá Trắng (Bạch Thạch Khe) và suối Lưỡng Kỳ (khe Bân) đổ ra sông Đá Trắng. Nằm trên độ cao gần 300m so với mực nước biển, hình dáng của ngọn núi khiến ta liên tưởng đến con voi ở trong thế quỳ phục, vòi chúc xuống khe Bân. Hệ thống các tảng đá tự nhiên, lớn, nhưng tương đối đồng đều bao quanh núi Mằn như vành mũ. Điểm xuyết giữa màu trắng xanh của những phiến đá là màu xanh của lá, màu đỏ vàng của các loài hoa cùng hệ thực vật bốn mùa tươi tốt ở xung quanh. Lưng chừng núi với vách đá cheo leo và hiểm trở còn có các hang động với những thớ đá, nhũ đá mịn màng, rực rỡ sắc màu, tạo nên vẻ đẹp kỳ diệu, huyền bí. Từ trên đỉnh núi Mằn nhìn xuống, phía Đông và phía Tây ngọn núi có dòng sông Bân và sông Đá Trắng chảy lượn bao quanh, nước trong xanh như mắt ngọc, tạo thành bức tranh sơn thuỷ đầy mê hoặc. Không chỉ là danh thắng đẹp, có cảnh sắc hữu tình với câu sấm trạng nổi tiếng lưu truyền đến tận ngày nay “Mằn sơn án hải, vạn đại Đế Vương”, ngọn núi nổi tiếng từ thời Đồng Khánh còn chứa đựng những giá trị về lịch sử, văn hoá. Theo lời người dân địa phương kể lại, từ ngàn xưa, nhân dân trong vùng thường coi núi Mằn và núi Bài Thơ là hai cặp núi song sinh với nhiều truyền thuyết hấp dẫn, ly kỳ. Trong đó, núi Mằn gắn liền với truyền thuyết “Ông khổng lồ gánh đá vá trời”. Tương truyền rằng, mỗi bước chân ông đi qua đều gắn liền với một số địa danh lưu truyền đến ngày nay. Đặc biệt, khi ông trở vai, đôi gánh gãy làm đôi, một bên gánh rơi xuống TP Hạ Long là núi Bài Thơ, một bên rơi xuống địa phận Xích Thổ (huyện Hoành Bồ cũ) chính là núi Mằn ngày nay. Di tích núi Mằn còn gắn liền với các sự tích lịch sử về Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương và các truyền thuyết liên quan đến hệ thống đình, miếu nằm rải rác trên địa phận xã Thống Nhất và phường Hoành Bồ như: Miếu Ông Cộc, miếu Ông Lang, miếu Ông Dài, đình Xích Thổ... Để thờ thần núi Mằn (Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương) và Long Hải sơn thần (vị thần cả cai quản vùng sông nước), nhân dân trong vùng đã xây dựng đền Bạch Trạch ngay dưới chân núi. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đến nay đền không còn thờ Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương và Long Hải sơn thần, mà xây dựng thêm am thờ Phật và thờ Mẫu Thượng Ngàn, Tam toà Thánh Mẫu. Đền có khuôn viên gần 1.000m2, bao gồm các công trình: Phủ Bà Chúa Đá trắng, am Thờ Phật, nơi thờ Sơn Thần và Cung bà Chúa Bản thổ. Hầu hết các công trình được xây gạch, trát vữa, mái lợp ngói tây và nền lát gạch hoa. Bên cạnh các giá trị về cảnh quan, tâm linh, quần thể khu di tích núi Mằn còn có giá trị to lớn về lịch sử. Theo nghiên cứu của các nhà sử học thì núi Mằn còn từng là đại bản doanh của quân đội nhà Lý trong cuộc kháng Tống thế kỷ XI. Trong hai lần kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông (1285, 1288), núi Mằn được Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn chọn làm đại bản doanh dự bị chiến lược của đạo thủy binh nhà Trần. Sau chiến thắng trận Bạch Đằng năm 1288, vua Trần Thánh Tông đã chỉ huy quân đội nhà Trần vượt biển tiến vào vịnh Cửa Lục, đóng quân tại núi Mằn rồi từ đó tiến lên chặn đánh và truy kích quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy trên đường rút chạy về nước qua đường Đình Lập – Lạng Sơn… Với vẻ đẹp hữu tình tạo hoá đã ban tặng cùng với hệ thống đền, miếu gắn liền với nhiều truyền thuyết lịch sử, quần thể di tích lịch sử - danh thắng núi Mằn đã được Bộ Văn Hoá, Thông Tin và Du Lịch quyết định xếp hạng di tích cấp quốc gia ngày 08/7/2014. Nguồn: Báo du lịch Hạ Long Quảng Ninh

Quảng Ninh 3321 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật