Di tích lịch sử

Tuyên Quang

Cây Đa Tân Trào

Di tích cây đa Tân Trào ở thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Cây đa Tân Trào là một biểu tượng lịch sử của thôn Tân Lập, nơi đã diễn ra những sự kiện quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam. Cây đa này không chỉ là vị thần bảo hộ cho người dân nơi đây mà còn là một nhân chứng sống cho những ngày tháng hào hùng của quân và dân Tân Trào. Dưới gốc đa Tân Trào, chiều ngày 16 tháng 8 năm 1945, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã đọc bản Quân lệnh số 1, ngay sau đó quân Việt Nam Giải phóng đã làm lễ xuất quân tiến về giải phóng Thủ đô Hà Nội trước sự chứng kiến của toàn thể đồng bào các dân tộc Việt Bắc và 60 đại biểu toàn quốc. Từ đó cho đến nay, cây đa Tân Trào đã trở thành một biểu tượng cách mạng của Thủ đô Khu giải phóng Tuyên Quang. Cây đa Tân Trào có hai nhánh cây cao vút được người dân gọi là cây đa ông và cây đa bà. Cả hai cây nằm cách nhau 10mm và rất sum suê cành lá. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, cây đa dần già đi và suy yếu. Năm 1993, do ảnh hưởng của một trận bão, “cây đa ông” bị đổ, chỉ còn lại một nhánh nhỏ. Còn “cây đa bà” không tránh khỏi được quy luật “sinh tử”, dần có những dấu hiệu xấu, lá ngả vàng, một số ngọn bị chết. Đến năm 2008, cây đa Tân Trào chỉ còn sót lại duy nhất một cành hướng Đông Bắc của “cây đa bà” còn sống nhưng là phát triển không tốt, phần rễ chính của cây gần như đã chết. Trước tình hình cấp bách đó, chính quyền địa phương đã phối hợp với các tổ chức, doanh nghiệp đưa ra các phương án chăm sóc và hồi sinh cho cây đa Tân Trào. Bằng nhiều nỗ lực, sau 2 năm cây đa Tân Trào đã dần phục hồi, xuất hiện thêm nhiều chồi non, báo hiệu sự sống sẽ nảy nở mạnh mẽ. Và cho đến ngày nay, “cây đa bà” đã phát triển thành 2 cụm rễ gồm 38 rễ lớn nhỏ, tán rộng tỏa bóng xanh mát. Nhánh nhỏ của “cây đa ông” cũng đã phục hồi và phát triển thành cụm cây mới tươi tốt. Di tích cây đa Tân Trào nằm trong khu di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào của tỉnh Tuyên Quang. Nguồn: Du Lịch Tuyên Quang

Tuyên Quang 3937 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Lán Nà Nưa

Lán Nà Nưa (còn gọi là lán Nà Lừa) ở thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc từ cuối tháng 5/1945 đến ngày 22/8/1945 để chuẩn bị và lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Ngày 21/5/1945, sau 18 ngày đêm xuyên rừng, bất đầu từ Khuổi Nậm- Pác Bó (Cao Bằng), Bác Hồ về tới Tân Trào, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945. Điểm dừng chân đầu tiên của Bác khi tới Tân Trào là đình Hồng Thái. Sau khi nắm sơ bộ tình hình, địa thế dự kiến nơi đặt “đại bản doanh” của Trung ương, Bác Hồ và các cán bộ cùng đi vượt sông Phó Đáy vào thôn Tân Lập, xã Tân Trào. Ban đầu Bác Hồ đến ở nhà ông Nguyễn Tiến Sự, Chủ nhiệm Việt Minh của xã, nằm ở trung tâm thôn Tân Lập. Cuối tháng 5 năm 1945, Bác Hồ chuyển ra ở căn lán nhỏ trong khu rừng Nà Nưa, thuộc dãy núi Hồng. Lán Nà Nưa nằm kín đáo dưới các tán cây rậm rạp, bảo đảm bí mật và đáp ứng được yêu cầu của Bác đề ra: Gần nước, gần dân, xa quốc lộ, thuận đường tiến, tiện đường thoái. Lán cách làng Tân Lập hơn 500 mét về hướng đông, cách lán chừng 80 mét là con đường mòn qua đèo De, sang Phú Đình- Định Hóa (Thái Nguyên); phía trước lán, dưới chân rừng Nà Nưa là dòng suối Khuôn Pén. Tại căn lán nhỏ, đơn sơ trong rừng Nà Nưa, Bác Hồ đã ở, làm việc từ cuối tháng 5 đến ngày 22/8/1945. Lán Nà Nưa được dựng theo kiểu nhà sàn của người miền núi, quay theo hướng đông tây, có 6 cột gỗ chôn xuống đất, không có vì kèo, mái lợp lá cọ, lán dài 4,20 mét, rộng 2,70 mét, chia làm 2 gian nhỏ (có vách ngăn giữa 2 gian): Gian ngoài rộng 1,97 mét, dài 2,70 mét là nơi Bác Hồ làm việc và tiếp khách; gian phía trong rộng 2,10 mét, dài 2,70 mét là nơi Bác nghỉ ngơi. Xung quanh lán được thưng bằng vách nứa đan nong mốt, nửa phía trên vách đan để chừa những ô thoáng nhỏ để lấy ánh sáng. Ở chái phía tây có sàn (người Tày gọi là thích) để hai ống bương (bắng) nước. Mặt sàn bằng phên nứa đan nong mốt. Phía dưới, đầu sàn của lán là phiến đá rộng và phẳng, nơi Bác thường ngồi làm việc, đánh máy chữ mỗi khi trời tối. Tại lán Nà Nưa, Bác Hồ đã chỉ thị: Vùng giải phóng đã bao gồm 6 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên) địa thế nối liền với nhau nên thành lập khu căn cứ, lấy tên là Khu giải phóng; các lực lượng vũ trang sau khi thống nhất lại, lấy tên chung là Quân giải phóng; triệu tập Hội nghị cán bộ toàn khu để thống nhất lãnh đạo và triển khai công tác. Chấp hành chỉ thị của Bác, ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ toàn khu. Hội nghị đã quyết định thành lập Khu giải phóng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Quân giải phóng; đề ra 10 chính sách lớn của Việt Minh...Tân Trào được chọn làm “Thủ đô của Khu giải phóng”, trở thành trái tim của cách mạng Việt Nam. Từ căn lán nhỏ Nà Nưa - từ Tân Trào mọi chỉ thị, nghị quyết về phương châm, đường lối, sách lược của Đảng nhằm đẩy mạnh cuộc Tổng khởi nghĩa được truyền đi khắp cả nước. Để bảo tồn giá trị đặc biệt của di tích, năm 1972, di tích lán Nà Nưa đã được phục dựng lại tại địa điểm căn lán cũ. Năm 2009, lán Nà Nưa tiếp tục được tu bổ; đồng thời phục dựng hệ thống các di tích: Lán họp Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng (cách lán của Bác 20m về phía tây bắc), lán cảnh vệ (cách lán của Bác,30m về phía tây), lán điện đài (cách lán của Bác, 30m về hướng nam), lán Đồng minh (cách lán của Bác, khoảng 40m về hướng bắc). Lán Nà Nưa, là một trong số 138 di tích, cụm di tích trong khu di tích lịch sử Tân Trào được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích Quốc gia đặc biệt, ngày 10/5/2012. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang

Tuyên Quang 3377 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ

Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ thuộc thôn Làng Quá, xã Lũng Hồ, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Đồn và tường thành là hai khu vực riêng biệt và nằm cách nhau khoảng 2km, độ cao 742m so với mực nước biển, Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ cách thành phố Hà Giang 106 km về phía Bắc. Theo tài liệu của Pháp, năm 1907 vùng đất Đường Thượng thuộc tổng Đông Minh, xã Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Trong chuyến đi thị sát các vùng Đại Miên, Tiểu Miện, Yên Minh, Yên Định, Du Già, Đường Thượng của Trung tá Boifacy chỉ huy đạo quan binh thứ 3, trong báo cáo số 1165, tháng 9/1913 vùng đất này “cần được theo dõi và chính vì thế mà phải có đồn Đường Thượng…” Sau chuyến thị sát này công việc lên kế hoạch xây dựng đồn bốt mới dần được tiến hành. Đồn bốt Đường Thượng cũ nay là đồn Lũng Hồ được xây dựng và hoàn thiện từ những năm 1935 - 1940. Công việc xây dựng đồn bốt vô cùng vất vả, chúng đã bắt dân chúng khu vực xung quanh làm phu phen, tạp dịch, vác đá, lấy nước để xây dựng, ai không tuân theo bị chúng đánh đập hoặc bắn chết. Tường thành: Tường thành cách đồn gần 2km được bố trí dựa vào điều kiện tự nhiên theo triền núi hai bên con đường độc đạo nối giữa Lũng Hồ và Yên Minh với mục đích kiểm soát hàng hoá, người ngựa trên khu vực này, báo động sẽ liên lạc về đồn cách đó khoảng 2km. Vật liệu chủ yếu để xây dựng tường thành là đá núi, được lấy từ địa điểm xây dựng và các khu vực xung quanh với nhiều kích cỡ khác nhau, loại vữa dùng để xây chủ yếu là cát pha với vôi, không có xi măng. Đồn Lũng Hồ: Đồn được xây dựng trên khu đất cao, khá bằng phẳng quay hướng Đông - Tây. Chiều dài tường bao quanh gần 200m được bố trí các ụ bắn. Các ụ bắn đều có lỗ châu mai quan sát bên ngoài. Vật liệu chủ yếu để xây dựng tường thành là đá núi, được lấy từ địa điểm xây dựng và các khu vực xung quanh với nhiều kích cỡ khác nhau, loại vữa dùng để xây chủ yếu là cát pha với vôi, không có xi măng. Thiết kế của đồn gồm có Khu nhà ngang và dãy nhà dọc ở phía Tây; Khu dãy nhà dọc và tháp canh ở phía Đông; Giữa khu phía Đông và phía Tây là khoảng đất rộng. Nhìn chung nhiều hạng mục công trình bị đổ nát, hư hại, hầu như toàn bộ phần mái của các dãy nhà dọc và ngang bị tháo dỡ. Về mặt quân sự Đồn và tường thành Lũng Hồ là công trình quy mô, có vị trí quan trọng án ngữ con đường từ Lũng Hồ sang Đường Thượng, đồng thời ngăn chặn hoạt động tuyên truyền cách mạng tại vùng Đường Thượng của ta trong thời gian này. Công trình là bằng chứng của một thời kỳ lịch sử Pháp chiếm đóng và hoạt động tại khu vực miền núi xa xôi, hẻo lánh của tỉnh Hà Giang. Dưới sự kìm kẹp, nô dịch của thực dân Pháp ở khu Đường Thượng, cuộc sống của nhân dân rơi và cảnh lầm than. Thực hiện nghị quyết lãnh đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ và Liên tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng. “Cuối năm 1944 đồng chí Việt Hưng thực hiện nhiệm vụ khơi thông con đường liên lạc từ Cao Bằng - Bắc Cạn - Hà Giang sang Vân Nam (Trung Quốc) để đón cán bộ và chuyển vũ khí từ nước ngoài về nước. Đồng chí Việt Hưng tới Lũng Hồ, Đường Thượng gây dựng cơ sở, lấy Đường Thượng làm căn cứ, cán bộ Việt Minh đi đến đâu cũng nhận được sự ủng hộ của đồng bào. Ngày 9/3/1945 phát xít Nhật đảo chính Pháp. Ở Đường Thượng (Yên Minh) Bang tá Đào Văn Ất hốt hoảng bỏ đồn chạy trốn. Nắm bắt thời cơ đó cán bộ Việt Minh ở Đường Thượng đã họp khẩn cấp, chiếm đồn Đường Thượng, phá kho và lấy ngô, thóc chia cho dân và đặt trạm cảnh giới ở ngoài khu căn cứ được tiến hành rất khẩn trương. Ngày 16/3/1945 ta đã chiếm được đồn Đường Thượng, làm chủ và kiểm soát hoàn toàn khu Đường Thượng, từ đây các cán bộ Việt Minh toả về cơ sở lãnh đạo phong trào". Cùng với Khu di tích Sùng Chứ Đà, cơ sở cách mạng Đường Thượng, hang Mậu Long được công nhận là danh lam thắng cảnh cấp quốc gia, vườn quốc gia Du Già và Lễ hội Gầu tào, Lồng tồng, Cầu trăng, Cấp sắc, Thượng thọ... Nổi bật, là Lễ hội Tết Cá của người Tày được tổ chức tại xã Mậu Duệ. Cùng với định hướng của huyện và tỉnh trong thời gian tới, di tích Đồn và tường thành Lũng Hồ sẽ tiếp tục là những điểm đến hấp dẫn du khách khi tới Yên Minh. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang

Tuyên Quang 4832 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Sùng Khánh

Chùa Sùng Khánh thuộc địa phận thôn Làng Nùng, xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên. Chùa nằm gần Quốc lộ 2, cách Thành phố Hà Giang 9 km. Chùa Sùng Khánh được khởi công xây dựng từ tháng giêng năm Bính Thân thời Thiệu Phong (1356) đến rằm tháng tư thì hoàn thành. Trải qua bao biến cố của thời gian và lịch sử, ngôi chùa được xây dựng thời Trần và sau này được trùng tu vào thời Lê đã bị đổ nát, tượng Phật và các đồ thờ tự đã bị mai một. Duy nhất chỉ còn 2 tấm bia đá và 1 quả chuông cùng trường tồn với thời gian, trong đó đáng chú ý nhất là tấm bia dựng dưới triều vua Trần Dụ Tông vào năm 1367. Bia đặt trên một con rùa đá tương xứng, điểm độc đáo là ở trán bia được bao bọc trong băng trang trí hình cánh cung được chia ra 3 ô: Ô chính giữa khắc hình Phật bà A Di Đà ngự trên toà sen 2 tầng cánh, mỗi bên có một đệ tử đứng chầu tay chắp trước ngực; hai ô bên cạnh khắc 2 con rồng giống nhau, tựa như đối xứng trong tư thế đang bay, đầu nghển cao hướng tới toà sen. Theo các nhà nghiên cứu, trán bia này là một tổ hợp trang trí đặc biệt, chưa từng thấy trên một tấm bia nào khác hiện đã biết ở nước ta. Tấm bia này là hiện vật gốc độc bản còn tương đối nguyên vẹn, được dùng để so sánh đối chiếu một số tự dạng thời Trần khi nghiên cứu các văn bản khác. Tấm bia không chỉ khẳng định sự ra đời của một ngôi chùa thờ Phật ở vùng biên cương hẻo lánh, mà còn có một sử liệu quan trọng là việc dòng họ Nguyễn thế tập làm phụ đạo quản trị ở đây ràng buộc với ngôi chùa. Bia đá chùa Sùng Khánh là một tài liệu bia ký nguyên vẹn, trang trí hình Phật, rồng, hoa dây…chưa từng thấy trên tấm bia thời Trần nào hiện biết. Tấm bia còn giúp thêm tài liệu cho việc tìm hiểu địa danh, lịch sử, chữ viết thời Trần, đặc biệt là sự xuất hiện của chữ Nôm khắc trong văn bia. Ngoài ra, chúng ta còn biết chế độ Phụ đạo ở thời Trần được chính quyền Trung ương thi hành rộng rãi. Tấm bia còn là chứng cớ nói lên ảnh hưởng của Phật giáo thời Trần thời bấy giờ. Hơn nữa, một hệ quả lịch sử mà chúng ta thấy được, đó chính là một biểu hiện lớn mạnh của chính quyền trung ương thời Trần đã quản lý chặt chẽ mọi miền biên viễn của đất nước. Chính vì vậy tấm bia này được công nhận là Bảo vật quốc gia vào năm 2013. Đến năm 1705 ngôi chùa được trùng tu lại. Lần trùng tu này đúc quả chuông và tạc 1 bia đá ghi lại sự kiện trùng tu chùa. Chuông cao 0,90m, đường kính miệng rộng 0,67m. Đặc biệt là ở 4 múi chuông, mỗi múi có 2 phù điêu hình người đắp nổi (cao 10cm bố trí ở góc các múi) để bảo vệ và trấn 8 hướng. Sau năm 1964, do điều kiện lịch sử, chiến tranh khốc liệt, ngôi chùa Sùng Khánh không được chăm nom bảo vệ thường xuyên và ít lâu sau đã bị đổ sập. Đến năm 1989 ngôi chùa được xây dựng lại; năm 1993 chùa Sùng Khánh được xếp hạng là di tích lịch sử; năm 1999, được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia. Chùa Sùng Khánh gắn liền với lễ hội Lồng Tồng nơi đây. Từ năm 1994 đến nay, lễ hội Lồng Tồng (hội xuống đồng) được phục hồi lại. Lễ hội diễn ra vào ngày 15 tháng giêng âm lịch, được tổ chức tại thửa ruộng trước cổng chùa. Vào ngày này bà con nhân dân trong thôn, xã và các vùng lân cận quy tụ về đây dự lễ và lễ Phật. Vẫn theo lệ từ xưa, phần lễ đầu tiên là cúng tạ các thần linh cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, bản làng bình yên no ấm. Sau đó, người ta tiếp tục dâng lễ lên chùa lễ Phật. Tiếp theo phần lễ là phần hội với nhiều trò chơi dân gian truyền thống mà trong đó vui nhất, đông nhất là hội tung còn. Người dân địa phương thường quan niệm rằng, trong hội phải có người tung được quả còn ngũ sắc xuyên thủng hồng tâm thì năm đó bản làng mới làm ăn thuận lợi. Lễ hội được tổ chức vui tươi, tưng bừng và phấn khởi, với mục đích mở mùa gieo trồng mới, tạ ơn trời, đất, thần Nông, thần Phục Hy, Thành hoàng làng bản…, cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa và cuộc sống an yên,yên lành, hạnh phúc… Chùa Sùng Khánh là một điểm du lịch tâm linh trên mảnh đất Vị Xuyên. Dù trải qua bao biến cố thăng trầm, nơi đây vẫn lưu giữ được những giá trị lịch sử, văn hóa từ ngàn xưa. Về chùa Sùng Khánh, chúng ta có được khoảng không gian yên bình, tĩnh lặng giữa núi rừng non cao hùng vỹ, là cơ hội để cùng thưởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên yên bình, thơ mộng của Hà Giang. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang

Tuyên Quang 3258 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Cột Cờ Lũng Cú

Là cột cờ quốc gia, tượng trưng cho cột mốc cực Bắc của Tổ Quốc, cột cờ Lũng Cú nằm ở đỉnh Lũng Cú hay còn gọi là đỉnh núi Rồng (Long Sơn) thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Địa điểm này nằm ở độ cao khoảng 1.470m so với mực nước biển. Cột cờ Lũng Cú Có lịch sử lâu đời, trải qua nhiều lần phục dựng, tôn tạo, cột cờ mới hình bát giác có độ cao trên 30m được khánh thành ngày 25 tháng 9 năm 2010. Được xây dựng đầu tiên từ thời Lý Thường Kiệt, ban đầu cột cờ chỉ làm bằng cây sa mộc. Cột được xây dựng lại từ thời Pháp thuộc năm 1887. Những năm sau đó như 1992, 2000 và đặc biệt năm 2002 cột cờ tiếp tục được trùng tu , xây dựng lại nhiều lần với kích thước, quy mô lớn dần theo thời gian. Năm 2002 cột cờ được dựng với độ cao khoảng 20m, chân và bệ cột có hình lục lăng và dưới chân cột là 6 phù điêu họa tiết bề mặt trống đồng Đông Sơn. Theo thiết kế cột cờ hiện nay xây dựng theo mô hình cột cờ Hà Nội nhưng có kích thước nhỏ hơn, chiều cao 33,15m (hơn cột cờ cũ 10m) trong đó phần chân cột cao 20,25m, đường kính ngoài thân cột rộng 3,8m. Chân, bệ cột cờ có 8 mặt phù điêu bằng đá xanh mô phỏng hoa văn mặt của trống đồng Đông Sơn và những họa tiết minh họa các giai đoạn qua từng thời kỳ lịch sử của đất nước, cũng như con người Địa điểm này cũng được xếp hạng Di tích lịch sử và danh thắng quốc gia, là biểu tượng khẳng định chủ quyền dân tộc. Hàng năm, cột cờ Lũng Cú đón lượng lớn khách du lịch đến khám phá. Nguồn: Di sản Tràng An

Tuyên Quang 3821 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tiểu khu Trọng Con

Khu di tích Tiểu khu Trọng Con ở xã Bằng Hành, cách trung tâm huyện lỵ Bắc Quang gần 30 km, có tuyến đường Quốc lộ 279 chạy từ huyện Bắc Quang (Hà Giang) qua xã Bằng Hành tới huyện Chiêm Hóa của tỉnh Tuyên Quang. Từ khoảng năm 1939, phong trào đấu tranh chống đế quốc đã nhen nhóm ở nơi đây khi đồng chí Phạm Trung Ngũ, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, được phân công tới tổng Bằng Hành, nay thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) để gây dựng cơ sở cách mạng thông qua việc dạy học. Chỉ trong một thời gian ngắn, đồng chí Phạm Trung Ngũ đã khơi dậy lòng yêu nước, ý thức cách mạng của đồng bào trong vùng, tố cáo ách thống trị của thực dân Pháp. Tuy nhiên, do bị thực dân Pháp phát hiện nên đồng chí Phạm Trung Ngũ đã phải rút khỏi Bằng Hành đến nơi khác hoạt động. Thực hiện Chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh, ngày 1/6/1945, đồng chí Lê Quảng Ba (tức Lê Tâm), đồng chí Bế Triều (tức Hải Nam) chỉ huy đội vũ trang tuyên truyền gồm 54 chiến sĩ xuất phát từ Cao Bằng về tổng Bằng Hành để tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng. Để đảm bảo bí mật và an toàn, các đồng chí trong Ban Chỉ huy chia nhỏ thành từng nhóm đi tuyên truyền, xây dựng cơ sở. Chỉ trong một thời gian ngắn, đội vũ trang tuyên truyền đã mở được nhiều lớp đào tạo ngắn ngày, thành lập các đội du kích, tự vệ, các đoàn thể cứu quốc và đặt tên vùng hoạt động là "Tiểu khu Trọng Con" (tên anh hùng Lý Tự Trọng) bao gồm các xã Bằng Hành, Liên Hiệp, Kim Ngọc, Vô Điếm, Hữu Sản. Ngày 24/6/1945, đại biểu chính quyền cách mạng các xã trong Tiểu khu Trọng Con đã tổ chức mít tinh tại Thác Vệ, xã Bằng Hành, để thành lập chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh tổng hội. Tại đây, nhân dân đã được chứng kiến việc chính quyền cách mạng đốt bằng sắc, ấn triện, xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến, tổ chức cho nhân dân sản xuất, bảo vệ trật tự trị an, xây dựng đời sống mới. Từ đó, phong trào cách mạng ngày một phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng lan rộng trong toàn huyện Bắc Quang và các vùng lân cận. Tháng 8/1945, phong trào cách mạng của đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang đã lớn mạnh, cùng cả nước nổi dậy cướp chính quyền giành độc lập. 74 năm đã trôi qua, mỏm đá Thác Vệ còn đó bên dòng sông Lô, khắc ghi đóng góp của các chiến sĩ cách mạng, nhân dân các dân tộc vùng tả ngạn sông Lô thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) cho cách mạng, cùng cả nước nổi dậy cướp chính quyền giành độc lập. Năm 1996, Di tích lịch sử cách mạng Tiểu khu Trọng Con thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) được Nhà nước công nhận là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam

Tuyên Quang 3648 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử Quốc Gia Căng Bắc Mê

Căng Bắc Mê - di tích lịch sử thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tọa lạc trên sườn núi Rồng thuộc địa bàn thôn Đồn Điền, xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang. Căng Bắc Mê được người Pháp xây dựng trước năm 1938 trong thời gian chiếm đóng Hà Giang. Được người Pháp chọn xây dựng tại nơi đây bởi vị trị chiến lược trọng yếu, dễ dàng kiểm soát được khu vực rộng lớn, thuận lợi cho những hoạt động quân sự của Pháp trong thời gian chiếm đóng nơi đây. Căng bắc mê được xây dựng dựa trên sườn núi đá tai mèo hiểm trở, cao vút. Phía sau là núi Rồng như che chắn bảo vể cho đồn bốt này, trước mặt là dòng sông Gâm giúp cho việc quan sát, bao quát tình hình được dễ dàng. Căng Bắc Mê ban đầu được người Pháp xây dựng để kiểm soát tuyến đường huyết mạch nối 3 tỉnh miền núi phía bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng. Khi mới xây dựng nơi đây được sử dụng như một trại binh tập kết binh linh của Pháp và tay sai trong thời gian chiếm dóng tại địa bàn này. Sở dĩ nơi đây được gọi là Căng Bắc Mê, bởi theo tiếng Pháp căng mang ý nghĩa là “đồn”, Bắc Mê theo tiếng địa phương là “Pác Mìa” được hiểu là cửa chòi. Để chỉ đồn bốt nơi đóng quân cũng như là nơi đặt chốt quan sát của thực dân Pháp. Căng Bắc Mê được xây dựng bao gồm hệ thống những đồn bốt, nhà thông tin, vọng gác nhằm phục vụ cho mục đích cai trị của chúng. Từ năm 1939-1942 Căng Bắc Mê được người Pháp biến thành trại tù binh để giam giữ các chiến sỹ cộng sản mà chúng bắt được. Có rất nhiều đồng chí cách mạng yêu nước của ta bị giam giữ tại nơi đây như: đồng chí Xuân Thủy, Hoàng Hữa Nam, Hoãng Bắc Dũng, Lê Giản, Nguyên Hồng, Đặng Việt Châu... Tận dụng địa thế trọng yếu của đồn bốt được xây dựng ở nơi rừng thiêng, nước độc có địa thế cheo leo hiểm trờ của khu vực này. Chúng bắt những tù nhân chính trị, những chiến sỹ cộng sản yêu nước giam cầm tại nơi đây. Hàng ngày những chiến sỹ đó phải chịu những đòn roi tra tấn, phải lao động trong điều kiện khắc nghiệt, kham khổ dưới sự kiểm soát gắt gao của chúng nhằm dập tắt tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng của những người con mà chúng gọi là Việt Cộng. Song tất cả những khó khăn gian khổ đó không khắc phục được ý chí quật cường của nhân dân ta. Những người con yêu nước đã biến đau thương thành hành động, biến nơi tù đầy thành trường học chính trị. Họ thành lập cả chi bộ Đảng trong tù, tích cực rải truyền đơn và liên lạc với nhân dân và các chiến sỹ bên ngoài. Đứng trước những hoạt động đấu tranh mạnh mẽ của tù nhân cùng nhân dân trong khu vực, chúng buộc phải thay đổi nơi giam giữ với những đồng chí cộng sản sang những nơi khác. Đến năm 1992 Căng Bắc Mê được công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia. Trải qua thời gian địa danh này đã bị hư hỏng nhiều. Năm 2003 Sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Hà Giang phối hợp với các cơ quan ban ngành trong tỉnh, cùng với Huyện Bắc Mê đã cho tiến hành trùng tu một số hạng mục của di tích như: vọng gác, nhà giam, đường lên xuống... Nguồn: Sở văn hoá thể thao du lịch Hà Giang

Tuyên Quang 4143 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Kỳ Đài Hà Giang

Di tích Kỳ Đài nằm trên Quảng trường 26 tháng 3 thuộc phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang. Kỳ Đài là nơi ghi dấu lưu niệm sự kiện Bác Hồ thăm và nói chuyện với hơn 16.800 đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang vào ngày 27/3/1961. Trong dịp này Bác Hồ căn dặn nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang 8 nội dung chủ yếu sau: Trước hết, tất cả các dân tộc đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà. Hai là: Đồng bào phải ra sức tăng gia sản xuất, và thực hành tiết kiệm để làm cho mọi người đều áo ấm cơm no. Ba là: Muốn sản xuất tốt, phải có đủ nước, nhiều phân bón và cải tiến nông cụ. Bốn là: Cần phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà… là nguồn lợi lớn, lại là nguồn phân bón cho ruộng nương. Năm là: Khai thác lâm thổ sản, bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng, trồng cây ăn quả và cây làm thuốc. Sáu là: Đồng bào phải chú ý vệ sinh, để giữ gìn sức khoẻ thì phải ăn uống sạch, mặc sạch, ở sạch. Sức khoẻ thì lao động sản xuất mới tốt. Bảy là: Đồng bào phải cố gắng xoá nạn mù chữ, phải biết đọc, biết viết thì làm ăn mới tiến bộ được. Tám là: Đời sống của đồng bào rẻo cao còn có nhiều khó khăn hơn đồng bào các nơi khác, nhân dân các cấp và cán bộ từ khu đến huyện cần phải ra sức giúp đỡ đồng bào rẻo cao khắc phục khó khăn, xây dựng cuộc sống mới. Lời căn dặn của Bác Hồ thấm sâu vào lòng nhân dân các dân tộc Hà Giang trong sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh Hà Giang trong thời gian qua. Kỳ Đài được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích cấp quốc gia năm 1993. Ngày 30/3/2001 UBND tỉnh Hà Giang khởi công xây dựng Quảng trường và cụm tượng đài trước cửa Kỳ Đài lấy tên là Quảng trường 26 tháng 3. Quảng trường bao gồm toàn bộ phần sân vận động trước đây. Chính giữa quảng trường đặt nhóm tượng đài "Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang". Mẫu tượng do nhà điêu khắc Nguyễn Phú Cường sáng tác, công ty Mỹ thuật Trung ương thi công. Công trình cao hơn 11m, gồm 200 khối đá, nặng 600 tấn. Hình tượng Bác Hồ đứng giữa nhóm 7 nhân vật, đứng nép âu yếm gần Bác là 2 em bé dân tộc Mông và Nùng. Đứng thấp hơn một chút là thiếu nữ dân tộc Kinh và Dao. Phía sau là hình tượng người chiến sỹ biên phòng và anh cán bộ người Tày, với ánh mắt rạng rỡ như muốn ghi lại từng lời dạy của Bác. Bố cục nhóm tượng hoà quyện với nhau, liên kết theo một sợi dây tình cảm xuyên suốt, sống động. Sự hình thành nhịp điệu đó chính là một sử lý sáng tạo có chủ đích mang tính biểu trưng của khối phụ trợ, đem lại cho người xem cảm giác về không gian hùng vĩ của núi rừng Hà Giang với tầng tầng mây bay lượn, hoà với lớp lớp ruộng bậc thang.... Với lợi thế tượng đài được đặt ở quảng trường, nên công trình có một không gian hoành tráng với chiều cảm thụ đa hướng, nhiều chiều. Đây là công trình văn hoá - nơi hội tụ của đông đảo người dân, chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoành tráng của công trình và tiến hành các sinh hoạt cộng đồng. Kỳ Đài và quảng trường 26 tháng 3 trở thành nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước. Là địa điểm sinh hoạt văn hoá cộng đồng của nhân dân các dân tộc Hà Giang. Nguồn: Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Hà Giang

Tuyên Quang 4534 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Bãi đá cổ Nấm Dẩn

Di tích Bãi đá cổ thuộc địa phận thôn Nấm Dẩn, xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần. Theo tiếng Nùng địa phương, “Nấm Dẩn” có nghĩa là khu vực nguồn nước. Bãi đá cổ Nấm Dẩn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 21/02/2008. Bãi đá cổ Nấm Dẩn được phát hiện vào năm 2004 bởi các nhà khoa học Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Hà Giang. Khu di tích đá cổ chạm khắc các hình vẽ có cách đây cả nghìn năm nằm trong một thung lũng rộng. Khác với di tích đá cổ ở Sa Pa (Lào Cai), bãi đá cổ Nấm Dẩn còn được ít người biết đến nhưng vẻ đẹp của các hình vẽ và những điều bí ẩn xung quanh các phiến đá thì không kém phần hấp dẫn và lôi cuốn. Các di tích cự thạch này nằm giữa dãy núi Tây Ðản và dãy núi đồi Nấm Dẩn, ngay gần sát với con suối Nậm Khoòng. Nhiều tảng đá trầm tích lớn nằm dọc bờ suối với hình thù đa dạng và độc đáo. Có tảng đá như một bàn cờ phẳng, có tảng lại giống tấm phản nằm hay một chiếc ghế ngồi. Trên bề mặt và ở các rìa cạnh của tấm đá vẫn giữ được nguyên trạng phong hóa tự nhiên. Nhân dân trong vùng gọi khu vực này là Nà Lai (ruộng nhiều chữ) vì trên một số tảng đá có khắc hình, chữ. Các hình khắc vẽ rất đa dạng, mang vẻ đẹp riêng trong phong cách tạo hình của nghệ thuật cổ. Ngoài hơn 80 hình khắc vẽ, trên bề mặt tảng đá còn có khoảng 80 lỗ vũm, được khoét với đường kính trung bình 5 - 6cm, sâu 1 – 2cm, các vũm phân bố chủ yếu ở đầu phía tây của tảng đá. Mỗi tảng đá là một điều bí ẩn, gắn với những câu chuyện ly kỳ mang dấu ấn tín ngưỡng, thể hiện sự linh nghiệm cầu ứng các đấng thần linh của nhân dân các dân tộc thiểu số trong vùng. Bãi đá bao gồm bảy phiến đá lớn và hai cự thạch (tảng đá cực lớn) khắc và vẽ 79 hình thù, bao gồm: sáu hình hồi văn hình vuông, hai hình hồi văn hình tròn, 40 hình tròn, một hình vuông, hai hình chữ nhật, sáu hình đục khắc song song tương tự ruộng bậc thang, năm hình biểu tượng sinh thực khí phụ nữ, còn lại là các hình bàn chân người với kích thước tương đương kích cỡ thật, có ngón chân khắc lõm sâu vào đá, hình người trong tư thế giơ hai tay, dang hai chân... Theo lời những già làng tại Nấm Dẩn thì: “Ở đây có tục thờ đá từ lâu đời nên những khối đá cổ bí ẩn kia không ai dám xâm phạm tới”. Cùng với đó người dân địa phương cũng đã truyền tai nhau qua biết bao nhiêu thế hệ về truyền thuyết rằng khu bãi đá cổ chính là nơi thần thánh đã cất giữ những bí mật “thiên cơ bất khả lộ”. Những hình vẽ trên các tảng đá được người dân coi là “thiên tự” còn khu vực này là “đất thánh” mà không ai ở đây dám coi nhẹ. Cho đến nay, ở Việt Nam, những dấu tích nghệ thuật tạo hình thời tiền sử còn tìm thấy khá ít. Theo các nhà KH, di tích cự thạch Nấm Dẩn có niên đại khoảng 2000 năm. Đây có thể là di tích mộ của thủ lĩnh cộng đồng hoặc là khu đất thiêng, thờ cúng thần linh, tổ tiên và các nhân vật lỗi lạc của cộng đồng dân cư. Ngoài ra, di tích cự thạch Nấm Dẩn còn có khả năng liên quan đến tục thờ thần đá của các cư dân tiền sử. Có thể nói Bãi đá cổ Nấm Dẩn có giá trị đặc biệt về văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng và giá trị nghiên cứu khoa học cao. Nguồn: Sở văn hoá thông tin du lịch tỉnh Hà Giang

Tuyên Quang 3334 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Phố cổ Đồng Văn

Tên gọi Đồng Văn được phiên âm từ tiếng quan hỏa “Tổng Puôn” có nghĩa là cánh đồng buôn bán, trong lịch sử đây là trung tâm giao thương của cả huyện Đồng Văn rộng lớn, là đầu mối chính trung chuyển thuốc phiện sang Trung Quốc. Khu vực trung tâm thị trấn Đồng Văn xưa thuộc tổng Đông Quan, châu Nguyên Bình, phủ Tường Yên tỉnh Hà Tuyên. Sau đó tách nhập thuộc châu Bảo Lạc do một thổ quan người Tày họ Nông ở Bảo Lạc cai quản. Khi thực dân Pháp chiếm đóng đã tách Đồng Văn ra khỏi Bảo Lạc. Năm 1887 khu vực Đồng Văn bị thực dân Pháp chiếm giữ và để thuận tiện cho việc cai trị đô hộ, chúng chia Đồng Văn thành các Châu nhỏ, đứng đầu mỗi Châu là một dòng họ thổ ty cai quản.Vùng đất Đồng Văn ngày ấy do thổ ty họ Nguyễn là ông Nguyễn Chấn Quay cai quản. Trước đây khu Phố cổ chỉ là một vùng thung lũng hoang sơ, dân cư thưa thớt. Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 khi người Pháp chiếm đóng Hà Giang, với ý định đưa khu vực này trở thành trung tâm giao thương sầm uất nên khu Phố cổ đã được xây dựng và hình thành. Từ trên cao nhìn xuống, 3 dãy nhà chợ xếp thành hình chữ U, lợp ngói âm dương. Khi mới xây dựng chợ được dựng lên bằng tranh tre nứa lá, Những người già hiện đang sống trên khu phố kể lại: Tết Nguyên Đán năm 1923, khu vực phố cổ Đồng Văn xảy ra trận hỏa hoạn lớn. Ngọn lửa đó thiêu trụi gần như toàn bộ các ngôi nhà, hàng quán lợp bằng lá tranh, nứa. Thực dân Pháp chiếm đóng lúc bấy giờ đã cho quy hoạch lại và cử một số người Tày, Mông sang thuê thợ từ Trung Quốc sang thiết kế xây dựng khu nhà chợ ngày nay. chợ cổ gồm 15 gian nhà chợ, chia thành 3 dãy đối xứng tạo thành kiến trúc chữ U. cột trụ là những cột đá lớn dầy 3,4 người ôm được đục đẽo kỳ công dưới những bàn tay con người. Theo tài liệu thu thập được thì hiện tại Phố cổ Đồng Văn còn 2 ngôi nhà có niên đại trên 100 năm tuổi. Ngoài ra trong khu phố này còn có một số biệt phủ của các thổ ty khác như biệt thự của thổ ty người Tày Nguyễn Đình Cương (1828-1865) và dòng họ Nguyễn, hiện nay đã bị đánh sập chỉ còn cái nền nhà cũ. Từ 1923-1940 các ngôi nhà ở khu vực phố Đồng Văn lần lượt được các người thợ Tứ Xuyên và những người thợ địa phương xây dựng. Về kiến trúc: Hầu hết các ngôi nhà cổ ở Phố Đồng Văn do những người thợ Trung Quốc và thợ địa phương thiết kế xây dựng nên có những sắc thái rất chung, như: phần móng nhà và hàng hiên được xây dựng bằng đá xanh, tường thì được trình bằng đất sét trộn vôi, mật mía và giấy bản hoặc gạch nung hay gạch mộc do đó có độ bền vững chắc. Cửa ra vào và cửa sổ được thiết kế dưới dạng cửa vòm hoặc cửa vuông có ốp đá hay gạch nung ở khung cửa. Cột nhà được xây dựng bằng gạch nung hoặc gỗ nghiến, gỗ thông chắc chắn, hiện nay một số nhà trong khu phố còn giữ lại được những chân cột bằng đá có chạm trổ cầu kỳ với nhiều hình dạng khác nhau, chủ yếu là hình trụ 4 cạnh hoặc hình tròn với dáng vẻ của quả hoa Anh Túc. Trong ngôi nhà những sàn, gác 2 đều được lát ván bằng các loại gỗ quý. Các ngôi nhà được thiết kế xây dựng theo kiểu 3 gian 2 mái, lợp ngói âm dương hoặc nhà vuông ở giữa sân có lát đá (như nhà UBND cũ). Nhà cổ ở Phố cổ Đồng Văn được xây dựng trang trí, sắp đặt giống nhau gian giữa là gian quan trọng dùng để đặt bàn thờ, thẳng cửa ra vào đồng thời cũng là nơi tiếp khách, sau bàn thờ của gian giữa và hai gian bên cạnh là phòng ngủ, buồng giữa sau bàn thờ là phòng của những người lớn tuổi trong gia đình, hai bên cạnh là buồng của con cháu, nếu nhà rộng thì có thể làm bếp riêng hoặc cầu thang lên gác hai tùy theo cách bố trí của từng gia đình Những ngôi nhà có dáng vẻ oai phong và nét mềm mại tinh sảo của chạm khắc gỗ đá kết hợp hài hoà giữa kiến trúc cổ TQ và nghệ thuật VN. Đến vùng cao nguyên đá thăm phố cổ Đồng Văn, thăm chợ phiên vùng cao để được hòa mình vào dòng văn hóa bản địa. Có thể nói chợ phiên là nơi thể hiện rõ nét nhất bản sắc văn hóa của người dân nơi đây. Chợ phiên vùng cao không chỉ là nơi giao thương mà còn là nơi hò hẹn gặp gỡ của các chàng trai cô gái, đây thực sự là ngày hội của đồng bào nơi biên cương heo hút đá.vào những ngày Chủ Nhật hàng tuần khi chợ phiên được tổ chức, một không khí ồn ào, tấp nập và huyên náo, những chàng trai cô gái súng sính với những bộ váy áo sặc sỡ xuống chợ phiên. Họ có thể đi mất nửa ngày đường mới tới chợ, có người đi chợ để mua bán sản phẩm hàng hóa. Các bà vợ, bà mẹ đi chợ để mua sắm, các ông chồng đi chợ để giao lưu uống rượu, ăn Thắng Cố, còn các thanh niên nam nữ thì đi chợ để giao lưu tìm kiếm bạn tình. Đây là những biểu hiện đậm nét bản sắc văn hóa chợ của vùng cao nguyên đá. Chúng ta có thể bắt gặp đâu đó hình ảnh người vợ đứng che ô chờ chồng say rượu ngủ ở góc chợ, lề đường. Đó là hình ảnh đẹp mang đậm bản sắc không nơi nào có được. Với những nét cổ kính rêu phong tồn tại theo dòng chảy của thời gian, Phố cổ Đồng Văn đã được công nhận là di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật năm 2010. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang

Tuyên Quang 3192 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Dinh Vua Mèo

Dinh thự Vua Mèo hay còn được biết đến với cái tên Dinh thự họ Vương, tọa lạc tại thung lũng Sà Phìn (Xà Phìn), xã Lũng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, cách trung tâm thành phố khoảng 125km và cách cao nguyên đá Đồng Văn nổi tiếng chỉ 15km. Căn nhà cổ này gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của 2 cha con người Mông là Vua Mèo Vương Chính Đức và Vương Chí Sình (hay Vương Chí Thành). Ông Vương Chính Đức (1886 - 1962) là người đứng đầu chế độ thổ ty phong kiến miền núi của dân tộc Mông nên còn được gọi với cái tên đầy quyền lực là Vua Mèo. Còn con trai ông là người đi theo con đường cách mạng, nhờ những cống hiến cho đất nước nên được bầu làm đại biểu Quốc hội 2 nhiệm kỳ đầu tiên. Công trình được bắt đầu xây dựng vào năm 1898 và chính thức hoàn thành vào năm 1907, tiêu tốn một khoảng tiền khổng lồ là 15 vạn đồng bạc trắng Đông Dương, tương đương với 150 tỷ VNĐ ngày nay. Dinh thự được thiết kế và xây dựng bởi những người thợ Vân Nam Trung Quốc kết hợp với đồng bào người Mông, tạo ra một công trình rộng hơn 1200m2 trên diện tích khoảng 3000m2. Nhờ lịch sử lâu đời và giá trị văn hóa không thể bàn cãi, Dinh thự Vua Mèo đã được Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia năm 1993, sau gần 1 thế kỉ tồn tại. Ngoài ra dinh thự này cũng mất đến 5 năm để khởi công xây dựng, tất cả đều được xây dựng bằng sức người chứ không hề dùng phương tiện máy móc gì. Dinh thự Vua Mèo nằm dưới chân một thung lũng được bao bọc phía trên bằng một vùng đất cao. Với kiểu địa thế này, toàn bộ công trình được bảo vệ bởi những cánh cung núi gọi là thế mai rùa, hỗ trợ phòng thủ rất tốt trong thời kỳ chiến tranh ác liệt. Trải qua hơn trăm năm tồn tại, mọi thứ trong dinh thự vẫn vẹn nguyên như ngày đầu. Kiến trúc bên trong dinh thự vô cùng độc đáo, là sự kết tinh của 3 nền văn hóa khác nhau gồm người Mông, người Pháp và người Trung Quốc. Công trình gồm 4 căn nhà ngang, 6 căn nhà dọc chia thành 3 khu vực tiền dinh (dành cho lính canh và nô tì), trung dinh và hậu dinh (là nơi ở và làm việc) với 64 buồng nhỏ chia thành 2 tầng. Để đáp ứng được tiêu chí kiên cố, những người thợ xây đã sử dụng đá xanh để xây dựng giúp dinh thự đứng vững trước kẻ thù và thời gian. Mái vách và cột trụ được làm bằng gỗ để tôn thêm sự uy nghiêm và uyển chuyển cho những căn phòng. Một vật liệu nữa được sử dụng là đất nung dùng cho việc xây các mái ngói để tạo hình dễ hơn nhưng không kém phần chắc chắn. Cho đến tận ngày nay, Dinh thự Vua Mèo là một trong số ít những công trình đáp ứng tất cả các yêu cầu về nơi ở, làm việc và trở thành một căn cứ phòng thủ mỗi khi có chiến sự xảy ra. Dù có sự kết hợp của 3 nền văn hóa trong kiến trúc nhưng nhiều người nhận xét rằng dinh thự họ Vương vô cùng hài hòa, uyển chuyển nhịp nhàng như thành một khối thống nhất mà không hề gò bó, khiên cưỡng. Thêm vào đó, tuy là công trình được xây dựng trên một khu đất lên tới 3000m2 nhưng Dinh thự không hề to lớn hay đồ sộ như nhiều người vẫn hình dung vì nó được cấu tạo từ những phân khu nhỏ, mang nét giản dị, mộc mạc của văn hóa kiến trúc dân gian. Kiểu thiết kế với nguyên tắc trong thấp ngoài cao khiến cho tổng thể Dinh thự càng gần gũi với cảnh vật xung quanh hơn nữa. Nhìn chung, đa số nội thất và vật dụng gắn liền với Vua Mèo khi còn sống đều được lưu giữ và bảo quản tốt đến tận ngày nay. Duy chỉ có một số ghế và đồ gỗ được làm bằng thông đá, về sau đã được nhà nước ta thay đổi bằng gỗ lim và gỗ nghiến để không bị mai một dần theo thời gian. Các cấu kiện gỗ mang bản sắc văn hóa địa phương đậm đà bằng cách khắc những hoa văn hình bông hoa bản địa như đào, anh túc… Những trụ nhà thì được chế tác sao cho giống quả của cây thuốc phiện, là loại cây mà Vua Mèo kinh doanh để làm ra tiền xây dinh thự. Một số vật dụng bị ảnh hưởng bởi phương tây có trong công trình này có thể kể đến như bồn tắm sữa dê bằng đá, cửa sổ chớp kính bên cạnh lò sưởi, lối ra vào thì được làm bằng đá hoa cương kết nối bằng khung hoa sắt đậm chất kiến trúc Pháp. Nguồn: Báo du lịch Hà Giang

Tuyên Quang 3752 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

NÚI CẤM SƠN - ĐỀN MẪU

Núi Cấm Sơn thuộc cung đường Bà Triệu, thị xã Cấm Sơn, phường Nguyễn Trãi, tỉnh Hà Giang. Không giống với những ngọn núi khác khi thường nằm ở nơi hoang vu, heo hút, núi Cấm Sơn Hà Giang thì lại khác. Ngọn núi này tọa lạc ngay giữa lòng thành phố Hà Giang ồn ào, nhộn nhịp, đứng sừng sững kỳ vĩ cũng giống như đang bao bọc, chở che cho người dân địa phương sống ở nơi đây. Núi cũng có tên gọi khác là Núi Cấm, xuất hiện với một hình ảnh thật riêng biệt, độc đáo, tạo nên vẻ trầm mặc, bí ẩn và sức hút khó cưỡng đối với những lữ khách đường xa lần đầu đến mảnh đất cao nguyên đá. Theo kết cấu địa chất núi được chia thành hai vùng riêng biệt. Phía từ đỉnh núi chạy dài theo dốc Mã Tim chủ yếu là núi đá vôi tai mèo với địa hình hiểm trở, hang sâu vách đá dựng đứng, như con Sư Tử với dáng oai vệ. Từ trên đỉnh núi trải dài về phía sông Lô là rừng núi đất, sườn núi vách dốc trải dài suốt từ đường 19 tháng 5 đến Quảng trường 26 tháng 3. Dưới chân núi “Cấm Sơn” là những phố phường đông đúc dân cư làm ăn sầm uất. Nhưng chắc rằng người dân Hà Giang ít ai có thể hiểu, thấy hết được những vẻ đẹp tự nhiên, song cũng đầy huyền bí của “Cấm Sơn”, vì là núi đá hiểm trở nên có rất ít đường lên núi, chỉ có một con đường độc đạo duy nhất có thể leo lên đỉnh núi. Trên đỉnh núi, nơi có một hang sâu thẳm, thẳng đứng như một cái “giếng trời”. Chính với địa thế hiểm trở và độc đáo này mà khi thực dân Pháp xâm lược, đã chọn nơi đây là chốt canh giữ chính, để bảo vệ thị xã. Theo truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian, đội quân “cờ đen” của Lưu Vĩnh Phúc, khoảng những năm 1870 - 1875, địa hạt Hà Giang có đội quân “cờ vàng” của Hoàng Sùng Anh kéo đến để cướp bóc, chúng bị đội quân của đồng bào các dân tộc là “Quân cờ trắng” đánh trả quyết liệt, bao vây truy kích, năm 1875, quân “Cờ vàng” của Hoàng Sùng Anh bị co cụm, đội quân của mình lên núi Cấm để cố thủ, lương thực cạn kiệt dần, xung quanh núi Cấm lại bị bao vây chặt chẽ, biết không thể thoát, cả tướng lẫn quân “Cờ vàng” đã nhảy xuống hang sâu trên núi tự vẫn. Với tấm lòng bao dung và nhân ái nhân dân địa phương đã lập ngôi miếu thờ nhỏ, cầu nguyện cho những linh hồn oan khuất được siêu thoát. Núi đã trở thành nơi linh thiêng ít có người dám lên, núi “Cấm sơn” càng trở nên huyền bí. Trải qua những năm tháng thăng trầm của thời gian miếu thờ cũng không còn nữa, dân địa phương đã đưa về thờ tại “Cấm Sơn Linh Từ” nay là đền Mẫu dưới chân núi Cấm. Đền Mẫu được xây dựng từ năm 1889 để thờ Đức Thánh Mẫu Thiên Tiên (tức Mẫu Thượng Ngàn Công Chúa Liễu Hạnh) và Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Với hơn 100 năm tuổi, Đền Mẫu đã trở thành một nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng trong tín ngưỡng người địa phương. Đây cũng là nơi lưu trữ nhiều hiện vật nghệ thuật, kiến trúc quý báu như các bức hoành phi, câu đối, chuông đồng, tượng thờ,… Nguồn: Báo điện tử Hà Giang

Tuyên Quang 3189 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Điểm di tích nổi bật