Di tích lịch sử

Việt nam

Chiến khu Ba Đình

Khởi nghĩa Ba Đình (1886 – 1887) là một trong những cuộc đấu tranh lớn và tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX. Di tích lịch sử Ba Đình đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia từ năm 1992. Tháng 3 năm 1886 các lãnh tụ phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa tổ chức cuộc họp tại Đồng Biên (Bồng Trung nay thuộc xã Vĩnh Tâm, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) bàn kế hoạch chống Pháp. Hội nghị đã quyết định giao cho Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt phụ trách xây dựng căn cứ Ba Đình ở vùng đồng bằng phía bắc huyện Nga Sơn. Căn cứ Ba Đình là nơi bảo vệ cửa ngõ miền Trung và là bàn đạp tỏa ra đánh địch ở đồng bằng. Ba Đình nằm ở phía Tây Bắc huyện Nga Sơn, gồm ba làng là: Thượng Thọ, Mỹ Khê, Mậu Thịnh nằm liền nhau. Mỗi làng có một ngôi đình và có chung một ngôi nghè. Ba Đình nằm giữa cánh đồng chiêm trũng và hai con sông là sông Hoạt, sông Chính Đại biệt lập với khu dân cư lân cận, nhất là vào mùa mưa. Đóng quân ở Ba Đình, nghĩa quân Cần Vương có thể kiểm soát được dòng sông, dễ dàng kéo lên Bỉm Sơn, Đồng Giao để khống chế quốc lộ 1. Địa thế Ba Đình rất thuận lợi cho việc xây dựng pháo đài phòng ngự vững chắc, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt được phân công xây dựng và chỉ huy căn cứ Ba Đình. Chỉ trong 1 tháng, căn cứ Ba Đình đã được xây xong, bao quanh ba làng là một hệ thống thung lũng bằng đất, có nơi chân thành rộng 9-10 mét, mặt thành xếp bằng cọc tre, bên trong tạo lớp bùn và rơm rạ tạo thành chiếc bia đỡ đạt rất công hiệu. Bên ngoài không thể nhìn thấy được vào bên trong, phía trong có hào rộng 4m, sâu 3m, cắm cọc nhọn chông chà bằng tre. Qua cánh đồng trũng là một lũy tre dày đặc bao bọc cả 3 phía Bắc, Tây, Tây nam. Lúc đầu nghĩa quân Ba Đình chỉ có khoảng 300 người, nhưng sau đó được bổ sung thêm. Vũ khí của nghĩa quân là súng hỏa mai, súng trường, cung, nỏ, vài khẩu súng thần công tổ chức cho 10 cơ đội, mỗi cơ đội khoảng 30 người do một hiệp quân chỉ huy. Lãnh đạo tối cao của căn cứ Ba Đình là Cán lý quân vụ Phạm Bành, còn người trực tiếp chỉ huy là Đinh Công Tráng được coi là linh hồn của khởi nghĩa Ba Đình. Lực lượng nghĩa quân Ba Đình có lúc đông tới hai vạn người, tuyển từ ba làng và các vùng Thanh Hóa, bao gồm cả người Kinh, Thái, Mường. Nghĩa quân có 10 toán, mỗi toán có một hiệp quản chỉ huy. Về vũ khí, nghĩa quân tự trang bị bằng súng hỏa mai, giáo mác, cung nỏ. Năm 1886, nghĩa quân liên tiếp tiến công các phủ, thành, huyện lỵ, chặn đánh các đoàn xe, các toán quân lẻ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 12 tháng 3 năm 1886 lợi dụng phiên chợ đã tấn công Tòa Công sứ Thanh Hóa. Và tiếp đó, nghĩa quân đã tấn công nhiều phủ thành, chặn đánh các đoàn xe, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Từ 18 tháng 12 năm 1886 đến 20 tháng 1 năm 1887 Đại tá Brissand thống lĩnh 76 sĩ quan và 3.500 quân vây hãm và tiến đánh căn cứ Ba Đình. Quân Pháp đã nã tới 16.000 quả đại bác trong vòng một ngày trời, biến căn cứ Ba Đình thành biển lửa. Nghĩa quân Ba Đình đã chiến đấu trong suốt 32 ngày đêm chống lại đối phương đông gấp 12 lần, được trang bị vũ khí tối tân hiện đại. Trong trận chiến đấu vô cùng ác liệt này, nghĩa quân đã tỏ ra mưu trí dũng cảm, nhưng vì hỏa lực mạnh của đối phương nên nghĩa quân Ba Đình bị thương vong nhiều. Để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, nghĩa quân Ba Đình đã mở một con đường máu vượt qua vòng vây dày đặc của quân Pháp, rút lên căn cứ Mã Cao. Đến sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân Pháp mới chiếm được Ba Đình. Sau đó, quân Pháp đã triệt hạ hoàn toàn cả ba làng của căn cứ Ba Đình, tiếp tục cho quân truy kích nghĩa quân ở Mã Cao, rồi triệt hạ luôn đồn này vào 2 tháng 2 năm 1887. Sau đó, một số đông nghĩa quân rút lên Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây Thanh Hóa sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Kết cục, thủ lĩnh Nguyễn Khế tử trận. Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại tự sát... Hoàng Bật Đạt sau bị bắt và bị Pháp chém đầu vì tinh thần bất khuất, không hàng giặc. Đinh Công Tráng thì chạy về Nghệ An. Quân Pháp treo giải cái đầu ông với giá trị tiền thưởng rất cao. Tháng 10 năm 1887, vì tham tiền thưởng, viên lý trưởng làng Chính An đã mật báo cho quân Pháp đến bắt và sát hại Đinh Công Tráng. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình và các lãnh tụ Ba Đình được lịch sử đánh giá rất cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này đã chọn tên Ba Đình để đặt cho Quảng trường Ba Đình, nơi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nguồn: Báo điện tử Thanh Hoá

Thanh Hóa 4544 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Trung Đô

Đền Trung Đô nằm ở thôn Trung Đô, xã Bảo Nhai, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai ngày nay được nhân dân xây dựng vào cuối thế kỷ 18, là nơi thờ tự, tưởng nhớ công đức của 3 vị tướng tài nhà Lê - Khánh Dương Hầu Vũ Văn Uyên (1479 - 1557); Gia Quốc Công Vũ Văn Mật (1493 - 1571); Tướng Hoàng Vần Thùng - là những người đã có công chỉ huy, lãnh đạo nhân dân xây thành, đắp luỹ giữ vững vùng biên cương của Tổ quốc, phát triển miền đất Trung Đô, Bắc Hà thuộc trấn Tuyên Quang xưa thành trung tâm kinh tế xã hội thời bấy giờ, đồng thời phò tá nhà Lê trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Theo ghi chép của các sử liệu cũ Vũ Văn Mật là nhân vật lịch sử sống vào thời nhà Lê (Lê Mạt) quê ở làng Ba Động, huyện Gia Phúc (nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Vào những năm 30 của thế kỷ 16, Vũ Văn Mật cùng anh trai là Vũ Văn Uyên rời quê hương lên trấn thủ vùng Đại Đồng, trấn Tuyên Quang xưa (nay thuộc tỉnh Lào Cai). Sau khi nối quyền của anh là Vũ Văn Uyên, ông tự xưng là Gia quốc công, cho dời căn cứ từ thành Nghị Lang và xây thành đắp lũy trên gò Bầu, từ đó, nhân dân thường gọi ông là "Chúa Bầu" hoặc "Vua Bầu". Vũ Văn Mật là một vị tướng tài ba, gan dạ và có lòng “trung quân, ái quốc, biết đặt vận nước lên trên tất cả”. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Vũ Văn Mật vùng đất Lào Cai xưa đã đạt tới một nền kinh tế phát triển cao, thịnh trị, hoạt động buôn bán tấp nập, phồn hoa. Ông được vua Lê Trang Tông giao giữ chức Tổng binh trấn Tuyên Quang, phong tước hiệu An Tây Vương và được lưu thủ tại vùng Đại Đồng. Ông tập hợp quân cùng với nhà Lê tiến đánh nhà Mạc tới Kinh Sư, khiến Mạc Phúc Hải bại trận phải bỏ chạy. Sau đó, nhà Mạc tiến đánh, Vũ Văn Mật đã không giữ được các vùng chiếm đóng, bèn rút quân về cố thủ ở Trấn Tuyên Quang (Lào Cai ngày nay) và qua đời tại đây. Để tưởng nhớ công lao to lớn của 2 anh em nhà họ Vũ và các tướng lĩnh đối với vùng đất Đại Đồng trấn Tuyên Quang (Lào Cai ngày nay) nhân dân đã lập đền thờ để hương khói. Trải qua thời gian lịch sử, ngôi đền bị tàn phá, chỉ còn một phần nhỏ và một số viên đá tảng kê chân cột (Được chạm khắc hình họa như người, vượn, chim công, kỳ lân…) với những đường nét tinh xảo và độc đáo, bên cạnh đó còn có những viên gạch xây có bản rộng và độ cứng rất cao, gạch trang trí được chạm trổ hoa văn cầu kì gồm các hình lá, hình xoắn ốc, đường hồi văn, hình dây uốn lượn… Ngoài ra còn rất nhiều hiện vật được làm từ chất liệu sành, sứ cũng được phát hiện tại di tích như: vò, bình vôi, bát, đĩa… và nhiều hiện vật chưa xác định được tên gọi đều đang được lưu giữ và bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Lào Cai. Tất cả các dấu tích và hiện vật còn xót lại là những dấu tích minh chứng cho lịch sử hình thành và tồn tại và phát triển của của di tích Đền Trung Đô. Cách đền khoảng 2 km về hướng bắc là dấu tích thành cổ Trung Đô được xếp bằng đất, đá bao bọc một quả đồi bên dòng suối Nậm Thin, cũng tại khu vực này, năm 1989, một người dân trong làng khi cày nương đã phát hiện được 1 khẩu súng thần công, nặng trên 300 kg, dài 8 m, hiện nay đang được lưu giữ, bảo quản tại bảo tàng tỉnh Lào Cai. Trong khu rừng cấm phía sau đền, có một tấm bia bằng đá trắng, tương truyền đó là nơi tập trung binh lính tuyên thệ trước khi ra trận: “quyết tử với kẻ thù” hiện trên bia vẫn còn 4 vết chém thề của tướng chỉ huy. Ở bên trái, phía sau ngôi đền, trong khu rừng cấm là một ngôi mộ đôi tương truyền đó là ngôi mộ của hai vợ chồng tướng quân Hoàng Vần Thùng, vì quyết không để rơi vào tay giặc, họ đã tuẫn tiết và được dân làng dùng đất đắp thành mộ, sau này mối xông lên thành một gò lớn. Hiện nay, mộ phần của hai vợ chồng tướng quân vẫn được thờ phụng tại nơi đây. Với các giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, giáo dục và phát triển du lịch, đền Trung Đô đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 22/8/2008. Ngôi đền đã trải qua 2 lần đầu tư, tu bổ để có được diện mạo khang trang như hiện nay. Đền Trung Đô có bố cục tổng thể kiến trúc hình chữ “Nhất” với tòa Tiền tế, phía trước hai bên có nhà Tả vu và Hữu vu nằm trên thế đất đẹp, phong thủy hữu tình, quy tụ hầu hết các thế đất, vị trí và phương hướng được coi là điển hình của của địa lý học như: thế thủy tụ, ngọa hổ, tả thanh long hữu bạch hổ,… làm không gian nơi đây càng trở nên linh thiêng, thanh tịnh. Lễ hội thường niên của đền một năm tổ chức hai lần vào dịp Lễ hội xuống đồng ngày rằm tháng Giêng âm lịch và lễ Khao quân tổ chức vào rằm tháng bảy. Trải qua lịch sử hình thành và phát triển, đền Trung Đô đã trở thành điểm sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân và du khách thập phương tham quan, chiêm bái, là nơi ghi dấu truyền thống đấu tranh anh hùng của quân và dân Lào Cai, giáo dục niềm tự hào dân tộc và truyền thống uống nước nhớ nguồn cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử huyện Bắc Hà

Lào Cai 2948 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Bình Lâm, Chuông Chùa Bình Lâm Bảo vật Quốc gia

Chùa Bình Lâm cách trung tâm thành phố Hà Giang 15km, nằm tại thôn Mường Nam, xã Phú Linh, huyện Vị Xuyên, nơi đây còn lưu giữ Bảo vật quốc gia Chuông chùa Bình Lâm. Trong lịch sử nước ta, thời Lý - Trần, Phật giáo thịnh hành, chùa chiền tạo dựng khắp nơi, ở chốn xa kinh đô Thăng Long, tại vùng đất Hà Giang cũng mọc lên một số ngôi chùa, trong đó có chùa Bình Lâm. Chuông do thủ lĩnh Nguyễn Anh - Người đứng đầu địa phương cùng với vợ và các lão ông, lão bà, thiện nam, tín nữ góp tiền, của đúc vào giờ Ngọ, ngày rằm tháng ba năm Ất Mùi (1295) và lưu giữ từ đó đến nay. Trên thân chuông có 3 chữ Hán lớn “Phụng Tam bảo” nghĩa là phụng thờ Tam Bảo (phụng thờ chùa Phật). Chuông chùa Bình Lâm được đúc vào năm Ất Mùi (năm 1295) thời Trần, đời vua Trần Anh Tông. Kích thước: Đường kính miệng: 59cm; Chiều cao: 101cm, trọng lượng 193kg. Đây là một trong những quả chuông có niên đại sớm nhất được biết ở Việt Nam. Quai chuông đúc nổi đôi rồng đấu lưng vào nhau, mỗi rồng có 2 chân, mỗi chân có 4 móng sắc nhọn quắp chặt xuống nóc chuông. Thân rồng mập mạp, chắc khỏe, uốn cong tạo thành núm treo chuông, đỉnh quai chuông trang trí hình búp sen vẩy cá chép bao phủ toàn bộ thân rồng. Thân chuông trang trí 6 núm gõ được bố trí thành 2 tầng, tầng thứ nhất ở dưới đế chuông có 2 núm đối xứng cách đều nhau 78cm. Tầng thứ 2 có 4 núm tạo thành 2 cặp đối xứng qua trục trung tâm của thân chuông, các núm này cách đều nhau 39cm. Các núm chuông tròn nổi đều bằng nhau, có đường kính 6cm. Đường viền xung quanh mỗi núm có 13 cánh sen đều đặn. Thân chuông được chia làm 2 phần: 4 ô chữ nhật đứng ở phía trên và 4 ô chữ nhật nằm ở phía dưới. Giữa các ô chữ nhật đứng là 5 đường gờ nổi chạy song song với nhau từ trên xuống dưới. Vuông góc với 5 đường gờ nổi chạy dọc thân chuông này, ở trên nóc, giữa thân và đế chuông là các đường gờ nổi cũng chạy song song với nhau phối hợp với các gờ nổi dọc tạo thành những ô chữ nhật trên thân chuông. Các ô chữ nhật này được bao quanh bởi những gờ đúc nổi rất thanh thoát và chắc khỏe. Trong lòng 4 ô chữ nhật đứng phía trên có khắc bài minh gồm 309 chữ Hán; 4 ô dưới hình chữ nhật nằm ở phía dưới để trơn, không có hoa văn hay ký tự nào. Vành miệng chuông loe ra, được trang trí bằng 45 cánh sen to xen lẫn 45 cánh sen nhỏ đều có kích thước bằng nhau tạo nên cho đế chuông vừa vững chắc, vừa mềm mại nhưng vẫn mang nặng ý nghĩa Phật học thông qua hình tượng hoa sen. Có thể nói chuông chùa Bình Lâm là hiện vật gốc độc bản còn tương đối nguyên vẹn. Đây là quả chuông thời Trần, một trong những quả chuông có niên đại sớm nhất được biết ở Việt Nam và là một cổ vật quý hiếm ở nước ta nói chung và ở Hà Giang nói riêng. Đây là một Đại hồng chung với kích thước lớn, được đúc nguyên khối bằng chất liệu đồng tốt tạo nên thanh âm sống động, vang xa. Hình dáng thanh nhã với các ô hộc bố trí hài hòa, cân đối, đặc biệt là các hoa văn trang trí với những nét chạm khắc độc đáo, tinh xảo mang đặc trưng tiêu biểu của nghệ thuật trang trí thời Trần, điều đó cho thấy trình độ đúc chuông của cha ông ta đã đạt đến đỉnh cao. Bài minh trên chuông là một văn bản gốc thời Trần, thông qua đó chúng ta biết được thái độ trân trọng của người địa phương miền núi với Vua Trần thứ 5 (Trần Anh Tông). Thông qua vị thủ lĩnh Nguyễn Anh - người thay mặt triều đình cai quản một địa phương “rất sùng đạo phật, đã bỏ tiền của xây dựng chùa, đúc chuông” cho ta thấy Vương triều Trần đã sử dụng Phật giáo làm công cụ để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trước những yêu cầu bảo vệ đất nước, chống giặc ngoại xâm. Nội dung minh văn càng khẳng định thêm tính ứng dụng rộng rãi của chuông trong Tam giáo, thể hiện thêm một nét văn hoá dung hợp tam giáo: Nho, Phật, Đạo của thời Trần. Năm 2013 chuông chùa Bình Lâm được công nhận là Bảo vật quốc gia. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang

Tuyên Quang 4253 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thuộc thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của vị Trạng nguyên triều Mạc Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (có tên là Văn Đạt, tự là Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ), sinh năm Tân Hợi (1491), người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, trấn Hải Dương (nay là thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Khoa thi năm Ất Mùi, triều Mạc Đăng Doanh (1535), ông đỗ Tiến sĩ đệ nhất danh (tức Trạng nguyên), được trao chức Đông các hiệu thư, dần thăng lên làm Hữu thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ. Ông được liệt vào hàng đệ nhất công thần, được phong tước Trình tuyền hầu, đến Thượng thư Bộ Lại, Thái bảo, tước Trình Quốc công. Năm 1542, sau khi dâng sớ xin chém 18 kẻ lộng thần không được chấp thuận, ông treo mũ từ quan về quê nhà ở ẩn, dựng quán Trung Tân, lập am Bạch Vân làm trường dạy học, sáng tác thơ ca, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Am trở thành trung tâm đào tạo nhân tài cho đất nước, với nhiều tên tuổi lưu danh sử sách, như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Giáp Hải… Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn tham dự quốc chính, nhưng nhà Mạc vẫn trọng vọng ông, thường hỏi ý kiến về những việc trọng đại. Ông mất ngày 28 tháng Mười Một năm Ất Dậu (tức 17/01/1586), thọ 95 tuổi. Học trò suy tôn ông là Tuyết Giang phu tử. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho yêu nước, nhà lý học đại tài được các học giả kính phục, sử sách ghi lại và lưu truyền trong nhân gian về tài tiên đoán hậu vận (sấm ký)... Ông còn là một nhà thơ lớn, để lại cho hậu thế trên 1.000 bài thơ (620 bài thơ chữ Hán, 153 bài thơ Nôm), tiêu biểu như các tập thơ “Bạch Vân am thi tập" (chữ Hán) và Bạch Vân quốc ngữ thi tập (chữ Nôm). Thi phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang giá trị nghệ thuật cao, bút pháp tinh thâm, đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống, như: tình yêu quê hương, đất nước, châm biếm đả kích bọn tham quan... Theo một số nguồn tư liệu, đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm được xây dựng sau khi ông mất và hoàn thành vào cuối năm 1586. Còn theo “Từ Vũ bi ký…" lập năm Vĩnh Hựu thứ hai (1736) hiện lưu tại di tích, đền dựng từ sau khi ông mất, đến năm 1735, dân làng Trung Am, tổng Thượng Am đóng góp công của trùng tu, tôn tạo lại đền để thờ phụng. Vào năm 1928, đền tiếp tục được trùng tu, với kiến trúc chữ “đinh”, mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Năm 1991, nhân kỷ niệm 500 năm sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm, di tích được tu bổ, phục hồi, mở rộng, dựng tượng đài, lập quảng trường, xây hồ bán nguyệt, với quy mô và cảnh quan như hiện nay. Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm tọa lạc giữa không gian rộng lớn, quay hướng Đông, phía trước là hồ nước; phía Bắc là triền đê và dòng Tuyết giang; phía Đông hướng nhìn ra biển cả bao la; phía Nam là xóm làng; phía Tây với những cánh đồng lúa, thuốc lào xanh ngắt. Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tổng diện tích 91.500,7m2 (khu vực I: 3.137,5m2, khu vực II: 88.327,2m2), bao gồm các hạng mục: Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm; đền thờ Thân phụ, Thân mẫu Nguyễn Bỉnh Khiêm; am Bạch Vân; quán Trung Tân; tháp Bút Kình Thiên; mộ phần cụ Nguyễn Văn Định; quảng trường, tượng đài. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm (huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hải Phòng 4589 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Từ Lương Xâm

Từ Lương Xâm là một trong “Tứ linh từ” linh thiêng của huyện cổ An Dương và nay là một trong 3 “linh từ” linh thiêng của quận Hải An (Từ Lương Xâm, Phủ Thượng Đoạn, Đền Phú Xá). Từ thờ Đức Vương Ngô Quyền- người có công đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938. Từ Lương Xâm là di tích lịch sử văn hóa có ý nghĩa đặc biệt đối với Hải Phòng, bởi chứa đựng các nội dung liên quan đến chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất của quân dân ta dưới sự lãnh đạo tài giỏi của Ngô Quyền. Chiến thắng ấy mở đường để chúng ta đánh tan quân xâm lược Nam Hán, đưa dân tộc ta đến với một kỷ nguyên độc lập, tự chủ mới. Lương Xâm xưa là tên một xã thuộc huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là phường Nam Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng). Từ Lương Xâm nằm ở phía Đông Bắc của xã Nam Hải, kiến trúc chính quay về hướng Đông.Theo sử sách để lại, từ Lương Xâm được xây dựng nguy nga từ thời Hậu Lê và trùng tu lại vào thời Nguyễn. Vì vậy, toàn bộ kiến trúc từ hiện nay mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, chỉ có một số kiến trúc là mang phong cách nghệ thuật thời Lê. Nhìn toàn cảnh, ngôi từ có bố cục kiểu “nội công, ngoại quốc” liên hoàn khép kín. Tức là vào cửa chính, ra cửa chính. Toạ lạc trên khu đất rộng, cao ráo, có nhiều cây cổ thụ, trên nền bản doanh và kho lương của Ngô Quyền chống giặc Nam Hán năm xưa. Việc đóng quân tại khu vực Lương Xâm mà Ngô Quyền nhiều lần về đây chỉ huy tác chiến được thần phả của các đình, đền thờ ông ở vùng Đông Bắc này đề cập đến. Không chỉ kiến trúc, những cổ vật trong từ mỗi khi chiêm ngưỡng sẽ mang lại cho du khách những cảm giác khác lạ. Trong từ hiện còn lưu giữ thấy 3 chiếc cọc Bạch Đằng là chứng tích của trận Bạch Đằng năm 938. Đến nay, Từ Lương Xâm còn lưu giữ được 25 đạo sắc chính và hơn 20 sắc phong được sao lại có niên đại năm 1522 đến năm 1924. Trong các sắc phong đó, nhiều triều đại suy tôn Đức Vương Ngô Quyền là “Thượng đẳng tối linh đại vương”, là “Ngô Vương Thiên tử” và nhiều mỹ tự.Với tất cả giá trị và ý nghĩa đó, ngày 12/12/1986, Từ Lương Xâm được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia. Bên cạnh lịch sử lâu đời và kiến trúc độc đáo thì lễ hội Từ Lương Xâm được tổ chức từ ngày 16 đến 18 tháng Giêng hàng năm kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng và ngày mất của Đức Vương Ngô Quyền) là tập hợp các tập quán xã hội và tín ngưỡng, các tri thức dân gian. Điều này được thực hiện từ xưa kia, sau khi đã tiến hành nghi thức quốc lễ tại Từ Lương Xâm thì đến lượt các tổng, các làng xã xung quanh tổ chức tế lễ Ngô Vương; về cấp độ, việc tế lễ Ngô Quyền do 3 cấp tiến hành: của nhà nước (thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần) sau này do hàng huyện đảm nhiệm, của hàng tổng và của dân làng sở tại. Trong lễ hội Từ Lương Xâm, cuộc hành lễ của hàng chục làng xã rước kiệu từ đình làng mình tới chầu đã tạo nên sự xúc động tâm linh hướng về cội nguồn mạnh mẽ. Tất cả các kiệu đều đặt ở khu đất rộng trước cửa Linh Từ Lương Xâm để chấm giải. Kiệu nào nhất thì lần sau được vinh dự thay mặt cả đoàn kiệu đứng dâng lễ Thánh Vương trước long sàng. Nghi thức tế đám Ngô Vương ở Từ Lương Xâm khá đặc biệt, lễ phẩm phải có một bò, một lợn, một dê mổ tế sống (cỗ thái lao), tế xong đem số thịt đó làm cỗ ăn tại đền và chia cho dân đinh; vào những năm “phong đăng hòa cốc” ở Từ Lương Xâm còn có lệ hợp tế hàng huyện, hợp tế hàng tổng. Trong lễ hội có nhiều tiết mục văn nghệ, biểu diễn ca múa nhạc dân tộc tái hiện lại chiến thắng Bạch Đằng, các trò chơi dân gian: bịt mắt đập niêu, bịt mắt bắt dê, đu xuân, cờ tướng, cờ người, tổ chức giải bóng đá, bóng chuyền… Với nhiều giá trị văn hóa lịch sử lớn lao để lại cho hậu thế, Từ Lương Xâm không chỉ là nơi thờ phụng tưởng nhớ công ơn của Đức Vương Ngô Quyền, mà còn là niềm tự hào của người dân Hải Phòng nói riêng và cả nước nói chung. Nguồn: Cổng Thông Tin Đối Ngoại Đa Ngôn Ngữ Thành Phố Hải Phòng

Hải Phòng 3905 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Căn cứ Cách mạng K20

Khu căn cứ cách mạng K20 được coi là biểu tượng của tinh thần cách mạng kiên cường và bất khuất của người dân Đà Nẵng nói chung và của quận Ngũ Hành Sơn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu quốc. Tên gọi K20 – là mật danh để chỉ khu căn cứ cách mạng Đa Mặn, nơi cơ quan Quận uỷ Quận III và Thành uỷ Đà Nẵng trú đóng để lãnh đạo phong trào cách mạng. Vào năm 1965, tình hình ở Đa Mặn và Bắc Mỹ An nói riêng, thành phố Đà Nẵng nói chung là hết sức phức tạp, Mỹ bắt đầu đưa quân vào miền Nam, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, xây dựng nhiều căn cứ quân sự lớn ở miền Nam, trong đó có Đà Nẵng. Mục tiêu của Mỹ là xây dựng Đà Nẵng thành một căn cứ quân sự liên hợp Hải, Lục, Không quân một cách chắc chắn, lâu dài, án ngữ phía Bắc; bảo vệ Thủ phủ của chế độ bù nhìn tay sai ở miền Nam, do đó Mỹ đã xây dựng thêm cầu qua sông Hàn, xây dựng sân bay lên thẳng ở Nước Mặn, mở rộng và củng cố sân bay Đà Nẵng và đưa 17 đơn vị Mỹ – Ngụy đến Đà Nẵng. Đối với Mỹ, đây là nơi có vị trí rất quan trọng, tập trung cơ sở vật chất cho cuộc chiến tại miền Trung. Còn đối với ta, khu căn cứ cách mạng K20 nằm trên địa bàn khu dân cư Đa Mặn 5, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, cách thành phố Đà Nẵng về phía Đông Nam khoảng 10 km; phía Đông Bắc giáp biển, phía Tây là dòng sông Hàn, phía Nam là đồng ruộng trũng và sông Vĩnh Điện; đồng thời tiếp giáp giữa huyện Hoà Vang và thành phố Đà Nẵng, là cửa ngõ chốt chặn và bảo vệ thành phố từ hướng Đông Nam. Sau hiệp định Giơ ne vơ, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã cho xây nhiều đồn bốt quanh Căn cứ Đa Mặn làm thành một vành đai quân sự khép kín và một bộ máy chính quyền tay sai ác ôn để kìm kẹp nhân dân và ngăn cản lực lượng cách mạng từ bên ngoài vào. Chính vì vậy Đa Mặn được coi là vùng đệm để bộ đội, cán bộ và du kích ta làm bàn đạp tấn công vào các căn cứ của Mỹ – Ngụy. Điều đó cho thấy K20 có một vị trí chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vùng đất “thép” để xây dựng và phát triển phong trào đấu tranh cách mạng ngay trong lòng địch, điểm nối mạch liên lạc giữa cách mạng địa phương với vùng lân cận của thành phố và tỉnh Quảng Nam và là bàn đạp quan trọng để lực lượng vũ trang của ta đột kích vào các cứ điểm quân sự của địch. Cũng từ năm 1965, cán bộ Đảng, các cấp, các ngành và các lực lượng vũ trang vào nội thành Đà Nẵng để chỉ đạo phong trào cách mạng đều đi qua và trú lại căn cứ Nước Mặn, hoạt động ngay trong lòng địch, để tiếp tục xây dựng cơ sở, diệt ác phá kìm, hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ trong thành phố, bảo vệ an toàn cho căn cứ Nước Mặn, làm chủ từng phần các vùng phụ cận như Mà Đa, Đa Phước, Mỹ Thị. Câu hỏi đặt ra, ngay giữa lòng địch, những cán bộ cách mạng làm sao có thể giữ bí mật và chiến đấu trong vòng vây của kẻ thù? Lúc này, dựa vào dân được coi là vấn đề sống còn của cách mạng và trả lời cho câu hỏi cấp bách đó. Một trận địa dưới lòng đất được hình thành, đó là hệ thống các hầm, hào bí mật vững chắc đào ngay tại các nhà dân. Năm 1968, Quận uỷ Quận III do đồng chí Đặng Hồng Vân đã hướng dẫn cho người dân mô hình đào hầm bí mật, tạo thành một hệ thống hầm chằng chịt trong làng để nuôi giấu cán bộ cách mạng. Hàng trăm hộ dân tích cực ngày đêm đào hầm, tạo thành một hệ thống chặt chẽ. Mỗi hầm như thế nuôi bốn đến năm cán bộ cách mạng. Mặc dù kẻ địch mở rất nhiều đợt truy quét trong làng để tiêu diệt lực lượng nòng cốt nhưng chúng không tài nào phát hiện được. Hầm được đào ở khắp nơi trong nhà, dưới giường ngủ, ngoài vườn, ngoài hiên… tạo thành một thành luỹ vững chắc. Đá Mặn đã làm nên một trận địa cách mạng ngay trong lòng đất trong thời gian đó. Các căn hầm được nhân dân làm rất công phu. Miệng hầm và lối đi vào rất hẹp nhưng bên trong lại rộng đủ để cán bộ cách mạng sinh hoạt hằng ngày. Ngoài miệng hầm chính còn được làm thêm miệng hầm giả. Nếu có tay sai chỉ điểm, nhân dân sẽ đập vỡ miệng hầm giả làm gạch, đá rơi xuống bịt miệng hầm chính, vừa đánh lừa địch vừa báo hiệu cho bộ đội trốn thoát ra ngoài. Điểm nổi bật trong hệ thống công sự mật được xây dựng ở K20 giai đoạn này là có tính cơ động cao và quy mô lớn. Tại nhiều gia đình, hoặc giữa các gia đình lân cận, có các đường hầm nhánh kết nối, vừa có điều kiện che giấu được nhiều người đồng thời, tạo ra thế liên hoàn rất thuận lợi cho việc di chuyển, tránh được sự phát hiện, đánh quét của địch. Một trận địa trong lòng đất đã được xây dựng với một hệ thống dày đặc các hầm bí mật, có lúc lên tới 157 hầm. Hiện nay, vẫn còn lại một số các hầm bí mật tại các nhà thờ như nhà thờ ông Huỳnh Phiên, nhà thờ bà Nhiêu, nhà thờ tộc Huỳnh và nhà ông Huỳnh Trưng. Bốn địa điểm này đã được xếp hạng Di tích lịch sử trong khu Di tích lịch sử quốc gia K20. Nhờ hệ thống hầm bí mật này cộng với ý thức tự giác cách mạng, đoàn kết vì mục tiêu giải phóng quê hương, quân và dân K20 đã làm nên nhiều chiến công hiển hách. Tiêu biểu như: trận đánh vào sân bay Nước Mặn ngày 28/10/1965 do lực lượng vũ trang Thành đội Đà Nẵng thực hiện. Tổ chức thành công buổi lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa trùng vây kẻ thù, buổi lễ vẫn được tổ chức rất trịnh trọng, trang nghiêm và an toàn như thể đang diễn ra ở vùng giải phóng. Đặc biệt, sáng ngày 29/3/1975, nhân dân K20 phối hợp với lực lượng vũ trang Quảng Đà đồng loạt nổi dậy và tấn công vào tất cả các cơ sở của Mỹ – Ngụy trên địa bàn. 9 giờ sáng, cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã được cắm trên sân bay Nước Mặn, báo hiệu sự thắng lợi hoàn toàn của quân dân khu căn cứ, góp phần hoàn thành xuất sắc sự nghiệp giải phóng dân tộc với vai trò và chức năng là một căn cứ kháng chiến trong lòng địch. Nguồn: Báo điện tử Đà Nẵng

Đà Nẵng 3757 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Hầm giấu vũ khí biệt động sài gòn

Hầm chứa vũ khí đánh Dinh Độc Lập là một trong những cơ sở của biệt động thành nhằm chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đây là căn nhà phố nằm trong một dãy có cùng cấu trúc mặt tiền, cửa sắt kéo. Chủ hộ là thầu khoán Trần Văn Lai (còn gọi là Năm Lai) sử dụng nhà vừa để xe ô-tô, vừa chứa vật liệu xây dựng. Căn nhà nằm gần đầu hẻm Trần Quí Cáp (ngày nay là ngõ Võ Văn Tần). Căn hộ được mua vào đầu năm 1967 theo sự thống nhất với người chỉ huy đơn vị của anh Năm Lai: ông Nguyễn Văn Trí, chính trị viên đơn vị Bảo Đảm thuộc Quân Khu Sài Gòn - Gia Định. Anh Năm Lai là cán bộ của đơn vị này, mua nhà xong Năm Lai bắt tay sửa chữa. Khoác lớp áo bên ngoài là thầu khoán mang tên Năm U - SOM (anh Năm thường vào cơ quan U - SOM của Mỹ để đấu thầu). Trong khi sửa chữa nhà anh bí mật thực hiện 1 kế hoạch của đơn vị giao: xây dựng hầm bí mật. Vì thế dưới nền nhà, bên trong buồng có hai hầm cạnh nhau. Mỗi hầm có đường cống lớn, vừa người chui, thông ra phía sau nhà. Hầm chứa vũ khí có kích thước dài 2m, ngang 1,2m, cao 2,5m; vách và nền hầm tô xi măng dầy để chống thấm. Riêng miệng hầm đích thân anh Năm tự tay lắp đặt. Nắp có chốt vặn. Dùng khoen đính chốt nhấc bổng nắp lên là có khoảng trống vừa một người chui xuống. Giữa năm 1967, hầm hoàn thành, được thông báo đến đơn vị Bảo Đảm (mang bí số J9 T - 700). Chỉ huy đơn vị sau khi thanh sát ra lệnh tiếp tục triển khai kế hoạch. Để chở một số lượng lớn, nhiều chủng loại vũ khí (súng ngắn, súng, đạn AK, B40, bộc phá... về địa điểm hầm bí mật cất dấu. Ngày 29 Tết Mậu Thân, tại xã Lộc Thuận, huyện Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh) đội 5 biệt động thực tập chuẩn bị cho cuộc tiến công. Sáng mùng 1 Tết, theo dòng người vui Xuân, các chiến sĩ đội 5 biệt động lần lượt dùng nhiều phương tiện đến tập hợp tại căn nhà trên đường Hoàng Đạo (nay là Trần Văn Đang), phường 11, quận 3. Chủ hộ cũng là một chiến sĩ biệt động tên Lê Tấn Quốc (bí danh Bảy Rau Muống). Lúc này toàn đội 5 biệt động 15 chiến sĩ trong đó có một nữ bí danh Chín Nghĩa, do Trương Hoàng Thanh chỉ huy. Đến 22 giờ đêm, theo kế hoạch, toàn đội 5 biệt động chuyển đến nhà Năm Lai trên 2 xe ô-tô của Lê Tấn Quốc. Hai ô-tô đậu trên đường Trần Quí Cáp, các chiến sĩ đội 5 xuống xe, vào nhà Năm Lai theo hai cửa trước và sau. Sau đó, theo sự chỉ huy của Ba Thanh, vài đội viên xuống hầm mang vũ khí, súng AK, lựu đạn và bộc phá lên, kiểm tra rồi đưa lên xe ô-tô đậu trong nhà. Lúc 1 giờ 30 sáng mùng 2 Tết, ta di chuyển đến gần dinh Độc Lập ở phía đường Nguyễn Du, lính gác địch phát hiện bắt dừng lại. Đoàn xe cứ tiến, chúng la lên báo động. Các chiến sĩ đi trên xe đầu tiên nổ súng diệt mấy tên này và dùng bộc phá để phá cổng cho xe chứa chất nổ lao vào, tiếc rằng bộc phá không nổ do trục trặc kỹ thuật. Tuy vậy tổ đột phá đã lọt vào được bên trong. Địch bắn xối xả, hai chiến sĩ hy sinh, số còn lại phải tạm lui, hai người bị thương. Địch từ các phía bên trong ập tới bịt kín các cổng. Đến 4 giờ sáng, thêm đội trưởng Trương Hoàng Thanh hy sinh. Gần sáng, điểm lại còn 8 người, anh em rút vào nhà số 56 Thủ Khoa Huân và tổ chức cố thủ trên lầu 3. Đói, mệt giữa vòng vây giặc, 8 chiến sĩ ngoan cường chiến đấu suốt cả ngày 31 tháng 1 năm 1968 tức mùng 2 Tết. Anh em chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, tháo súng, vứt bỏ, lại dùng gạch đá, gỗ chặn địch. Đồng chí Lê Tấn Quốc (Bảy Rau Muống) với khẩu AK làm nhiệm vụ chốt chặn ở cầu thang đã anh dũng hy sinh. (Liệt sĩ Lê Tấn Quốc được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang). Sau trận tấn công vào Dinh Độc lập của biệt động Sài Gòn khiến kẻ thù run sợ, chúng tịch thu toàn bộ tài sản, truy lùng và treo giải thưởng 2 triệu đồng cho đầu của Trần Văn Lai. Toàn bộ gia đình ông phải rút ra khỏi Sài Gòn nhưng bản thân ông vẫn tiếp tục hoạt động và chỉ thị các cơ sở còn lại của Biệt động Thành tiếp tục củng cố và xây dựng lực lượng. Năm 1972 ông bị địch bắt và giam ở nhà tù chi khu Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) song chúng không hề biết đã bắt được người chiến sĩ biệt động đã góp công lớn trận đã đánh thẳng vào đầu não kẻ thù năm 1968. Căn nhà số 287 hẻm 70 Nguyễn Đình Chiểu đã được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia và do chính người chủ cũ của nó trở thành người trông giữ và bảo quản. Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân Quận 3, Tp Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 3589 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Quán Thánh

Đền Quán Thánh, tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010 - 1028), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa (Thăng Long tứ trấn). Đền Quán Thánh trấn phía bắc (đền Bạch Mã trấn phía đông, đền Voi Phục trấn phía tây và đền Kim Liên trấn phía nam). Đền Quán Thánh thuộc phường Quán Thánh- Ba Đình - Hà Nội. Đền tọa lạc ở vị trí góc đường Thanh Niên và phố Quán Thánh nhìn thẳng ra Hồ Tây. Tại ngôi đền này hiện đang lưu giữ và thờ phụng bảo vật quốc gia - tượng quan Trấn Vũ bằng đồng đen, nặng 4 tấn. Huyền Thiên Trấn Vũ, là vị thần nhiều lần giúp dân nước Việt chống ngoại xâm, giúp An Dương Vương trừ ma quái khi xây thành Cổ Loa để nhớ công ơn thần, nhà Vua đã cho lập đền thờ. Theo thuyết của Đạo giáo, Huyền Thiên là một vị Thần luôn được thờ trấn ải Hướng Bắc. Tượng Huyền Thiên trước bằng gỗ, đến năm Vĩnh Trị thứ 2 thời vua Lê Hy Tông(1677) mới được đúc bằng đồng cao 3,96m, nặng 4 tấn, chu vi bệ đã 8m. Tượng ngồi oai nghiêm, mặt vuông, mắt nhìn thẳng , râu dài, đầu không đội mũ, tóc xõa ra đằng sau, mình mặc áo đạo sỹ mầu đen đi chân lên lưng rùa, thân gươm có rắn quấn. Rắn và rùa tượng trưng cho sức mạnh và sự trường sinh của Thần. Tượng đồng Huyền Thiên đồ sộ, uy nghiêm, hùng dũng được thờ ở Phía Bắc Thành Thăng Long mang một ý nghĩa lớn lao đối với tự vệ Quốc gia, biểu thị tinh thần quật cường của dân tộc qua các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm nhiều thế kỷ trước. Về kiến trúc, Đền Quán Thánh đã qua rất nhiều lần tu sửa và kiểu kiến trúc như hiện nay phần lớn là từ thời Nguyễn thế kỷ 19, gồm: tam quan, sân bái, tiền đế, trung đế và hậu cung. Trên cổng giữa của tam quan có đắp nổi tượng thần Rahu trong thần thoại Ấn Độ đã nuốt mặt trăng, mặt trời gây nên hiện tượng nguyệt thực, nhật thực. Đây là sự hội nhập tín ngưỡng của người Việt Nam. Ngoài ra, các chi tiết kiến trúc bằng gỗ tại đền được chạm khắc rất tinh xảo, mang phong cách nghệ thuật thời Lê. Vào thế kỷ 19, vua Minh Mạng đổi tên thành Chân Vũ quán (tên này được tạc bằng chữ Hán trên nóc cổng tam quan. Bức hoành trong bái đường vẫn để tên cũ là Trấn Vũ Quán). Với những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật tiêu biểu mang tính thời đại và tầm vóc Quốc gia, dân tộc. Tượng quan Trấn Vũ tại đền Quán Thánh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận Bảo vật Quốc gia ngày 22/12/2016. năm 2022 đền Quán Thánh được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt . Hằng năm, lễ hội đền Quán Thánh diễn ra vào ngày 3 tháng 3 âm lịch. Nguồn: Sở du lịch Hà Nội

Hà Nội 2656 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Nhà cổ Trần Văn Hổ

Nhà cổ Trần Văn Hổ tọa lạc số 18 đường Bạch Đằng, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương. Ông Trần Văn Hổ (Tự Đẩu) – nguyên là Đốc Phủ Sứ thời thuộc Pháp. Công trình được thân sinh ông Đẩu là cụ Trần Văn Lân xây dựng năm Canh Dần (1890), được công nhận di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật Quốc gia ngày 29/4/1993, tổng diện tích còn lại là 1.296m2. Mặt chính diện ngôi nhà quay về hướng Tây Nam, hướng sông Sài Gòn. Ngôi nhà nguyên là một khu nhà lớn gồm: nhà chính, nhà phụ, khu chuồng ngựa… Nhưng từ sau ngày giải phóng, do không có chủ bảo quản được nhà nước tiếp quản thu giữ. Hiện chỉ còn lại một ngôi nhà chính, đây là ngôi nhà lớn của gia đình được dùng chủ yếu là để thờ cúng ở gian giữa. Trước sân nhà được che phủ bởi cảnh thiên nhiên thu nhỏ của vườn hoa, cây cảnh, hòn non bộ được trang trí đầy đủ cảnh sinh hoạt “Ngư - Tiều - Canh - Mục”. Ngôi nhà có dáng dấp nhìn từ ngoài vào hơi thấp, với mái ngói rêu phong, tạo cảnh sắc thiên nhiên của sự cổ kính, thanh tịnh, tách hẳn với ồn ào náo nhiệt của cảnh phố chợ bên ngoài. Bước vào bên trong là cảnh phô trương, thể hiện sự sung túc vật liệu toàn là gỗ quý như Cẩm Lai, Giáng Hương, Gõ, Sến, mật… được sử dụng bày trí lớp lớp, từ mái nhà xuống cửa võng và cả bậc ngạch. Từ những song gỗ, đường nét ô vuông đến các mảng phù điêu tấc cả đều được bố trí đối xứng đến từng chi tiết, tạo nên bề thế trang nghiêm, thể hiện sự tôn ti, nề nếp và phong cách vương quyền. Lối kiến trúc của ngôi nhà theo dạng chữ “Đinh”, tổng diện tích xây dựng là 200m2 . Ngôi nhà xây dựng theo kiểu 3 gian, 02 chái gồm 36 cột tròn, 6 hàng cột tròn từ trước ra sau, mỗi hàng là 6 cột được kê toàn bộ trên đá tảng, nền lát gạch tàu. Ngoài ra, phía bên trái ngôi nhà có 3 cửa dạng một cánh được thông ra ngoài, trừ mặt tiền của ngôi nhà, còn lại 3 mặt bên được xây tường gạch. Mái ngói âm dương dài thoai thoải … Từ hệ thống mái vững chắc, có phần hơi thấp, bên trong nội tự được ngăn đôi bức tường giả hình chữ U tạo chiều sâu. Mảng giữa tường và khánh thờ là các bức Hoàng phi được sơn son thép vàng, các bức liễng bằng những câu đối cẩn xà cừ đính trên cột. Gian giữa phía trên là khám thờ với tấm Thủ quyển chạm nổi hình Tứ linh hoàng tráng, giữa bức thủ quyển ấy là ba hàng chữ đề danh hiệu các vị thần được thờ. Phía trái là thờ thần Táo với danh hiệu “Đông Trù Tư Mạng”, giữa là thờ trời với danh hiệu “Hiệp Thiên Đại Đế”, bên phải thờ phúc thần với danh hiệu “Phúc Đức Chánh Thần”, phía dưới thờ gia tiên nhiều đời. Với lối kiến trúc qui mô khép kín của ngôi nhà truyền thống Việt Nam vào thế kỷ 19, ngôi nhà đã để lại cho Bình Dương một công trình kiến trúc cổ, góp một phần giá trị lịch sử - nghệ thuật truyền thống dân tộc thật quý, minh chứng cho sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của vùng đất và con người Bình Dương, cả trong quá khứ cũng như hiện tại. Thật đáng được trân trọng và gìn giữ. Ở hai bên gian thờ giữa là hai buồng (phòng) chủ nhà; buồng ông và buồng bà.Trên hai cửa buồng có hai bức hoành đề: Ngự dược, Diên phi (cá nhảy, diều bay: Có ý mong thi dậu hoặc thăng quan lên chức). Nơi đây còn có các bao lam đều trang trí đẹp, công phu. Đối xứng hai bên hông buồng ngủ là hai tủ đứng cẩn xà cừ đẹp… Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3675 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích núi và chùa Châu Thới

Di tích danh thắng Núi Châu Thới là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Bình Dương được Bộ Văn hóa- Thông tin xếp hạng là di tích danh thắng cấp quốc gia ngày 21 tháng 4 năm 1989, với những giá trị nổi bật về lịch sử, văn hóa, cảnh quan thiên nhiên. Núi Châu Thới nằm ở vị trí gần quốc lộ 1K thuộc địa phận phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Núi Châu Thới cao 85m, trên đỉnh có ngôi cổ tự uy nghi, quang cảnh cây cỏ quanh năm tươi tốt. Theo các nguồn tư liệu khảo cứu, chùa Châu Thới được xây dựng vào khoảng năm 1612 do Thiền sư Khánh Long sáng lập từ một am tranh nhỏ, lúc bấy giờ chùa được mang tên là Hội Sơn Tự. Tuy nhiên, căn cứ vào lạc khoản còn lưu giữ ở chùa có ghi dòng chữ “Tân Dậu niên chánh nguyệt sơ kiến nhật”, có thể xác định chùa Châu Thới được xây dựng vào năm 1681 và là ngôi chùa được xây dựng sớm nhất tỉnh Bình Dương và thuộc nhóm lâu đời nhất Nam Bộ. Hơn 300 năm lịch sử, chùa Châu Thới đã trải qua 13 đời trụ trì; qua quá trình biến động lịch sử, chùa đã được tu tạo nhiều lần: Năm 1930, trùng tu lại nhà thờ Tổ và Giảng đường; năm 1971, đắp xi–măng 220 bậc thang lên núi; năm 1993, Chánh điện được trùng tu. Sau đó, các hạng mục khác như bảo tháp, đại hồng chung, tượng phật, rồng chầu…cũng được xây dựng, hoàn thiện. Bên cạnh những giá trị lịch sử tôn giáo, chùa Châu Thới còn mang những giá trị lịch sử cách mạng của vùng đất Dĩ An. Trong kháng chiến chống Pháp, dựa vào thế núi và ngôi chùa Châu Thới là nơi trú ẩn, hội họp của các nhà hoạt động cách mạng. Với địa thế hiểm yếu lại có các vị sư yêu nước, do đó rất thuận lợi làm điểm hội họp, dừng chân, ẩn náu; chùa Châu Thới đã từng là nơi luyện tập võ nghệ của các hội viên “Thiên địa hội”, nơi dừng chân của quân Đào Tây Sơn và là nơi lánh nạn của các chiến sĩ cách mạng. Các nhân vật nổi tiếng lúc bấy giờ như Huỳnh Văn Nghệ, Huỳnh Tấn Phát cũng từng đến chùa và hoạt động tại đây. Trong suốt 2 cuộc kháng chiến, các chư tăng ở đây đã ủng hộ tiền, gạo, vải, thuốc cho bộ đội; lúc cần kíp chùa Châu Thới đã ủng hộ cả Đại Hồng Chung để công binh xưởng đúc đạn đánh giặc… Chùa Châu Thới được liệt vào một trong những Danh lam cổ tự của Việt Nam; chùa, núi, quang cảnh xung quanh tạo nên một danh thắng phong thủy hữu tình, cảnh trí thơ mộng, xanh mát…các yếu tố kiến trúc hòa quyện, tạo điểm nhấn cho khung cảnh thiên nhiên, làm toát lên những giá trị văn hóa kiến trúc, văn hóa cảnh quan nổi bật. Chùa Châu Thới hiện còn lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị, trong đó có 3 pho tượng Phật được tạc cách đây hơn 300 năm; hệ thống tượng gỗ, tượng đất nung; đặc biệt chùa còn lưu giữ pho tượng Quan Thế Âm bằng gỗ mít trên 100 năm do chính Hòa thượng Thích Thiện Hóa chế tác. Tuy các hạng mục chính của chùa được xây bằng bê tông, cốt thép song được thể hiện bởi những bậc thợ tài hoa nên tổng thể chùa vẫn toát nên vẻ đẹp cổ kính, đậm màu sắc dân tộc. Quần thể chùa, điện trên núi Châu Thới gồm: Chánh điện, nhà Tổ, điện Thiên Thủ Thiên Nhãn, miếu Linh Sơn Thánh Mẫu, điện thờ Diêu Trì Kim Mẫu…một số hạng mục được trang trí bằng các mảnh gốm sứ rất đẹp mắt. Năm 1994, chùa đã vận động bà con đóng góp đúc 4 pho tượng đồng, mỗi tượng nặng trên 1 tấn, cao 2.5m do nhóm thợ kỳ cựu của xứ Huế, đây là những pho tượng đúc đồng đầu tiên tại tỉnh Bình Dương. Ngoài ra, chùa còn có tượng Quan Thế Âm cao 22,5m, cặp rồng lớn bao quanh, cách hàng chục km vẫn có thể nhìn thấy. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc, cảnh quan chùa Châu Thới trên đỉnh núi Châu Thới đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh cấp quốc gia năm 1989. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 4406 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Thần Dĩ An

Đình Dĩ An tọa lạc tại khu phố Nhị Đồng 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Đình được xây dựng vào năm 1838. Năm 1853, được vua Tự Đức ban sắc phong thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh, là một ngôi đình cổ - nơi bảo lưu những giá trị lịch sử - văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xuân lược, đình là nơi các chiến sĩ cách mạng địa phương rèn luyện, hun đúc ý chí, tổ chức lực lượng để tiêu diệt kẻ thù. Đình là nơi hoạt động của “bộ đội Đào Sơn Tây”. Đặc biệt, trong thời gian kháng chiến chống Mỹ xâm lược, đình còn là nơi dừng chân, trú quân của lực lượng vũ trang tỉnh Thủ Dầu Một. Trong khuôn viên đình, hiện vẫn còn một số hầm bí mật của lực lượng vũ trang. Đồng thời, đình cũng là nơi sinh hoạt văn hóa của nhân dân trong vùng. Nhìn tổng thể kiến trúc, đình Dĩ An được thiết kế dạng chữ “nhất”, gồm: võ ca, võ quy, chánh điện, nhà khách, nhà túc,... Võ ca là nơi làm lễ Xây chầu và hát bội vào mỗi dịp lễ Kỳ yên, được xây dựng bằng bê tông thép và lợp tôn. Sân khấu, được xây dựng cao 0,8m, có hai bức tranh thủy mặc ở hai bên. Võ quy là nơi các chức sắc chầu lễ, cầm chầu (mỗi khi hát bội), hội họp, cũng là nơi chuẩn bị cho buổi ca diễn và dành cho khách. Nơi đây có thiết trí những câu đối bằng chữ Hán. Chính điện là nơi thờ tự chính của đình, với cột, kèo, rui, mè... đều được làm bằng gỗ; mái lợp ngói vảy cá, trên nóc có gắn hình bầu dục và hai con rồng; tường xây gạch; nền lát gạch men màu vàng. Chính điện được chia thành 15 gian, gồm 3 gian thờ chính và 12 gian thờ phụ. Bên trong chính điện được sắp xếp theo bố cục: Gian đầu tiên là nơi đặt bàn thờ Hội đồng nội, có thiết trí bao lam gỗ được chạm trổ rất tinh xảo, sơn son thếp vàng. Tiếp đến là án thờ Giáng Son - nơi thờ sắc phong của thần. Song song với án thờ Giáng Son là án thờ Tả Ban và Hữu Ban. Bàn thờ chính thần được đặt ở vị trí trang trọng, hai bên đặt tượng hai con bạch mã, lỗ bộ, võng điều; ngoài ra, còn trang trí bao làm bằng gỗ sơn son thếp vàng cùng các câu đối bằng chữ Hán. Sau chính điện và phía tây nam của đình là hai dãy nhà khách với nhiều gian nhà được trang hoàng khá trang trọng. Nhà được xây dựng gồm 80 cột gỗ quý, mái lợp ngói móc, toàn bộ được sơn phủ màu đen tạo nên nét cổ kính. Đây là nơi dùng để sinh hoạt và đón tiếp khách trong những ngày lễ cúng đình. Hàng năm, đình có hai lễ cúng lớn là: Lễ Cầu bông (cúng Tiên sư, Tổ nghiệp) diễn ra vào ngày 16-6 âm lịch với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và lễ Kỳ yên được tổ chức vào ngày 15 và 16-11 âm lịch (3 năm đáo lệ một lần) nhằm cầu cho quốc thái dân an. Ngoài ra, đình Dĩ An còn là nơi dung hợp nhiều tín ngưỡng: Thờ Thành Hoàng, Nữ Thần (Ngũ hành nương nương, Diêu Trì Địa Mẫu, Kim Hoa nương nương..); đền thờ Vua Hùng, đền thờ các anh hùng liệt sĩ và các bà mẹ Việt Nam Anh Hùng…thể hiện truyền thống tốt đẹp bao đời của người Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”. Đình Dĩ An được Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh ngày 18-3-2011. Ngày 28-3-2019, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng đình Dĩ An là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 4665 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Tân An

Đình Tân An - Bến Thế nằm ở khu phố 1, phường Tân An, TP Thủ Dầu Một. Đây là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh được xếp hạng ngày 2/6/2004. Đến ngày 26/4/2014 Đình Tân An được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Đình được xây dựng vào năm 1820 bởi lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất này sinh cơ lập nghiệp. Ban đầu đình chỉ là mấy gian nhà lá đơn sơ nên đặt tên chữ là “Tương An miếu”, do nhân dân của 4 xã: Tương Bình (nay là Tương Bình Hiệp), Tương An (nay là Tân An), Tương Hòa (nay là Định Hòa) và Cầu Định (nay là Tân Định) lập để thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, vị trí đình được đặt tại làng Tương An. Khoảng 30 năm sau đó, tổ tiên dòng họ Nguyễn (làm chức Ban biện) đứng ra chủ trì xây dựng lại ngôi đình với quy mô lớn, có hình dáng như ngày nay. Mặt khác, dòng họ Nguyễn là một trong những lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất Tân An khai hoang lập nghiệp và có công trùng tu ngôi đình làng nên được dân làng tôn làm “Tiền hiền - Hậu hiền” và được thờ trong ngôi chánh điện để tỏ lòng thành kính. Vào ngày 19-11 năm Tự Đức thứ 21 (1869), vua Tự Đức ban sắc phong cho đình Tân An nhằm công nhận ngôi đình và phong tước hiệu cho thần Thành Hoàng để nhân dân biết mà thờ tự. Sắc phong luôn được cất giữ tại Nhà thờ dòng họ Nguyễn (hiện là nhà ông Nguyễn Tri Quan). Theo sắc phong vua Tự Đức ban thì vị thần được thờ chính trong đình là Tiền quân cơ Nguyễn Văn Thành, một vị quan triều đình nhà Nguyễn, đại thần của vua Gia Long. Nguyễn Văn Thành là một bậc khai quốc công thần triều Nguyễn, nhưng đã vướng vào trọng án “văn chương” của con trai Nguyễn Văn Thuyên, bị Gia Long nghi ngờ phản nghịch bị bức tử và chỉ được giải oan hơn nửa thế kỷ sau đó (vào năm 1868). Về tổng quan kiến trúc, ngôi đình được làm toàn bằng gỗ Sao, có lối kiến trúc hình chữ Tam, còn gọi là lối sắp đọi, dân gian gọi là đình ba nóc, theo kiểu xuyên trính, hai mái, hai chái, gồm 40 cây cột vuông bằng gỗ, hành lang rộng gồm 30 cột gỗ (do thời gian mưa nắng đã làm cho một số cột ở hai bên hành lang bị hư hại nên được thay bằng cột xây bằng gạch, vôi). Mái đình được lợp toàn bộ bằng ngói vây cá qua nhiều năm mưa nắng mái ngói phủ rêu phong trông rất cổ kính. Trên đình được trang trí hình lưỡng long tranh châu, ở các góc mái trang trí hình cá hóa rồng. Nền lát gạch đỏ (gạch tàu) hình lục giác. Toàn bộ ngôi đình có chiều rộng 50m, dài 70m, được xây trên diện tích hơn 10.000m2. Đặc biệt, toàn nội thất trong đình như hiện vật bàn thờ, tủ thờ, tấm hoành, bao lam, cột gỗ, câu đối… đều bằng gỗ quý được các bàn tay nghệ nhân chạm khắc rất tinh xảo với nhiều chủ đề khác nhau làm tôn lên kiến trúc nghệ thuật độc đáo của đình. Ngoài ra, đình còn lưu trữ một công trình chữ Hán rất phong phú còn lại cho đến ngày nay qua các cặp liễn đối, hoành phi, sắc thần… Hàng năm theo đúng lệ xưa , lễ hội diễn ra trong 3 ngày 3 đêm từ 14 đến 16 tháng 11 (âm lịch) là dịp trăng sáng để bà con thuận tiện vui chơi và đi lại. Đây cũng là dịp thủy triều dâng cao và theo quan niệm của nhân dân đó là điềm của mùa màng bội thu, của vạn vật tốt tươi, tiền của dồi dào… Đình Tân An là một di tích lịch sử - văn hóa mang đậm nét kiến trúc nghệ thuật và danh lam thắng cảnh. Đặc biệt, đình còn lưu giữ Sắc phong của vua Tự Đức. Trong những năm kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đình Tân An là nơi hoạt động cách mạng của địa phương. Nguồn: Báo Bình Dương điện tử

TP Hồ Chí Minh 3743 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình thần Phú Long

Đình Phú Long còn gọi là “Phú Long linh miếu” nằm ở khu phố Hòa Long, phường Lái Thiêu, thành phố Thuận An, được ban sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5 và được công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia năm 2001. Trải qua gần 200 năm, dù đã qua nhiều lần trùng tu nhưng kiến trúc và những hiện vật có giá trị còn lưu giữ tại đình. Đình do nhân dân địa phương lập để thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh. Lúc đầu đình được xây dựng bằng tre, gỗ, trên nền đất thô sơ. Sau đó, đình được trùng tu nhiều lần vào các năm 1865, 1935, 1997... Hiện nay, đình có tổng diện tích sử dụng là 5.828m2, diện tích xây dựng là 1.258m2. Đình được xây dựng kiểu chữ tam, theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, lợp ngói âm dương, nền lót gạch hoa. Cổng đình, tường vách dọc ngang được chạm trổ hoa văn, họa tiết, phần lớn được cẩn li ti bằng những mảnh men sành sứ cổ, đủ sắc màu, phong phú với nhiều hình tượng, điển tích đa dạng, mang sắc thái đặc thù của vùng sông nước thiên nhiên hài hòa. Về kiến trúc, toàn bộ mặt tiền, phần bê tông của đình được cẩn các mảnh gốm sứ đầy màu sắc, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật gốm sứ truyền thống trong kiến trúc đình, chùa tại Thủ Dầu Một. Toàn bộ tiền điện có gắn bao lam bằng gỗ được chạm trổ với các đề tài hoa trái như mai, lan, cúc, lựu, nho, chuối, tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở. Ở khoảng giữa trung điện và chính điện có một bao lam ghép gốm sứ men màu xanh, trang trí các hình long, lân, cảnh hội Bát tiên, Long Hải tướng quân, cá hóa rồng... Trên mái trung điện, ở giữa có hình nhật nguyệt, đầu hồi là hình long, lân, quy, phụng. Phần mái hậu điện cũng có các hoa văn cá hóa long, lưỡng long tranh châu. Bên trong mái ở trung điện và hậu điện là hai bộ vì kèo chịu lực bằng gỗ, kết cấu theo kiểu kẻ chuyền, hai hàng cột gồm sáu cây loại gỗ gõ, có đường kính 40cm. Chính giữa chính điện là án thờ sắc thần Thành Hoàng Bổn Cảnh được vua Tự Đức ban, hai bên thờ Tả Ban và Hữu Ban. Ở đây còn thờ các vị có công với làng, với đình theo thứ tự từng án thờ có lập bài vị. Riêng án thờ được đặt cao nhất là hình một chiếc ghế dựa bằng gỗ hình vuông, chạm thủng hình mai, lan, cúc, trúc, với long vị đắp nổi trông rất uy nghi (gọi là ngự). Chính điện có nhiều hương án được xếp trật tự dành cho du khách thập phương đến thắp nhang, lễ bái thể hiện lòng thành kính. Bên hương án có đôi quy, hạc đứng chầu, tượng trưng cho sự bền vững. Gian đầu hồi, bên trái đặt bàn thờ Ngũ Hành Nương Nương, bên cạnh đặt một cái mõ dài 1.8m, bên phải đặt bàn thờ ông Hổ, bên cạnh có một cái trống để sử dụng vào các dịp cúng tế, lễ hội. Các bàn thờ Tiền Hiền, Hậu Hiền cũng được bài trí tôn nghiêm. Từ ngoài nhìn thẳng vào chính điện, có hàng lễ bộ, gồm nhiều loại binh khí với bốn cặp hạc đứng trên lưng rùa. Đình còn lưu giữ rất nhiều câu đối khắc trên thân các cây cột, hương án..., tất cả đều được chạm trổ tinh vi, sơn son thếp vàng rực rỡ. Các hoa văn trang trí trong lẫn ngoài đình là hình cá hóa long, rồng cách điệu, cảnh hội Bát tiên... Ngoài các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, Đình Phú Long đã từng là nơi ẩn náu, cất giấu vũ khí của nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ cách mạng tại địa phương trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3583 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Hội Khánh

Chùa Hội Khánh tọa lạc tại số 35 đường Yersin, phường Phú Cường, TP Thủ Dầu Một, là một công trình kiến trúc tôn giáo, nghệ thuật lớn nhất tỉnh, được công nhận Di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia ngày 7/1/1993. Chùa xây dựng từ thế kỷ 18 (1741), dưới chân đồi, cách trung tâm TP Thủ Dầu Một 500m về hướng Đông, năm 1861 chùa đã bị giặc Pháp thiêu hủy. Đến năm 1868, chùa được xây dựng lại ở vị trí hiện nay với diện tích xây dựng 1.211m2. Năm 2007, chùa xây dựng thêm ngôi tháp 7 tầng cao 27m và tái tạo lại Phật tích “Tứ động tâm”, gồm có: Vườn Lâm Tì Ni (nơi Phật ra đời), Bồ Đề Đại Tràng (nơi Phật hành đạo), Vườn Lộc Uyển (nơi Phật thuyết đầu tiên), Ta La Song Thọ (đức Phật nhập niết bàn) có ý nghĩa sâu sắc về đạo pháp. Năm 2008, Phật đài quy mô lớn, cao 22m được xây dựng ở khu đất phía trước chùa. Tầng trệt là dãy nhà dài 64m, rộng 23m dùng làm Trường Phật học, Thư viện… Tầng trên tôn trí đại tượng đức Bổn sư Thích Ca nhập Niết bàn cao 12m, dài 52m. Đây là một công trình mỹ thuật đáng tự hào của Phật giáo Bình Dương, được khánh thành trọng thể vào ngày 30/3/2010 (15/2/2010 Âm lịch) mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Về cấu trúc chùa gồm bốn phần chính: Tiền điện – chánh điện, giảng đường kiến trúc này có 92 cột gỗ quý, Đông lang và Tây lang chùa bố trí theo kiểu “sắp đôi” nối liền nhau với kiến trúc “trùng thềm, trùng lương” - đây là biến tấu đặc biệt trong kiến trúc theo truyền thống chùa cổ xứ Nam Kỳ; Chánh điện với kèo cột, vách gỗ và ba bộ cửa bức màn, còn có gần 100 tượng gỗ, các vị La Hán và thập điện Minh Vương dáng vẻ khác nhau được tạo bằng gỗ mít sơn son thếp vàng. Đặc biệt có hai bức phù điêu chạm hình 18 vị La Hán và các vị bồ tát, tạo nên một công trình điêu khắc tuyệt mỹ, có giá trị nghệ thuật cao mang đặc trưng của phong cách điêu khắc gỗ Bình Dương xưa. Về phần nghệ thuật trang trí nội thất, tranh tượng tự khí thờ phượng được điêu khắc, chạm trổ rất công phu, sắc sảo… đặc biệt phải kể đến bộ bao lam “Thập bát La Hán” (tạo tác năm 1921), bức phù điêu “tứ thời” ốp vào hai cột trước Chánh điện. Các bàn thờ chạm trổ tinh vi hoàn thành vào năm Ất Sửu (1925). Nhà chùa còn giữ được bộ mộc bản in kinh cách đây trên 120 năm. Đại hồng chung của chùa được đúc vào năm Quý Mùi (1883) do Bổn đạo Dương Văn Lúa hiến cúng. Trong những năm 1923 -1926, Chùa Hội Khánh còn là nơi ẩn náu quy tụ các nhân sĩ: Nhà nho, nhà sư yêu nước cùng lập ra “Hội danh dự” với sự tham gia của chính hòa thượng Từ Văn, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (Thân phụ của bác Hồ), cụ Tú Cúc… mục đích của Hội là cổ vũ cho lối sống đề cao đạo đức, coi trọng danh dự và lòng yêu quý đồng bào đất nước. Dù Hội chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn nhưng đã gây dược ảnh hưởng đáng kể. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chùa Hội Khánh là trụ sở Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Thủ Dầu Một, đã góp nhiều công sức, tâm huyết kể cả xương máu của các nhà tu, Phật tử nhà chùa. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân địa phương từ năm 1953, chùa là trụ sở Phật giáo yêu nước tỉnh Bình Dương và đến năm 1983 Chùa Hội Khánh là trụ sở của tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương. Năm 1995, nơi đây, Tỉnh hội xây dựng Trường cơ bản Phật học tỉnh Sông Bé (Bình Dương). Hiện Thượng tọa Thích Huệ Thông trụ trì Chùa Hội Khánh (từ năm 1988) và là Phó ban Thường trực Tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3626 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh

Di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh nằm ở địa điểm thuộc ấp 1 xã Minh Tân (trước là xã Minh Thạnh) huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương (vị trí cũng đã được Đại tướng Văn Tiến Dũng xác định năm 1987). Di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia ngày 11/5/2010. Di tích Sở Chỉ huy Tiền phương Chiến dịch Hồ Chí Minh là di tích tiêu biểu, phản ánh sự lãnh đạo, chỉ huy đúng đắn, trực tiếp và sáng tạo của Trung ương Cục, Quân ủy Miền và Bộ Tư lệnh chiến dịch. Di tích mặc dầu là một cơ quan tạm thời, nhưng đã thể hiện được vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt trong chiến lược chiến tranh của thời đại mới, mà trực tiếp là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sở dĩ gọi là di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh là vì Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập ở căn cứ quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại ấp Tà Thiết Krom – Lộc Thành - Lộc Ninh, Sông Bé. Sau cuộc họp ngày 25/3/1975 của Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương, theo sự phân công của Bộ chính trị, cùng ngày, đồng chí Lê Đức Thọ vào Lộc Ninh để cùng các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng thay mặt Bộ chính trị trực tiếp chỉ đạo chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Khi chiến dịch sắp mở màn, để trực tiếp chỉ huy chiến dịch ngay từ đầu sát với tình hình tác chiến cơ quan, Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đã được Bộ Chính trị mà trực tiếp là đồng chí Lê Đức Thọ, đồng chí Văn Tiến Dũng quyết định chuyển tới căn cứ tiền phương sát với chiến trường hơn và chọn Căm Xe làm Sở chỉ huy Căm Xe, hay còn gọi là sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chì Minh. Với vị trí đã được xác định chuyển dời này, di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh là một trong những địa điểm quan trọng quyết định sự chỉ đạo đúng đắn và sáng suốt, trực tiếp, nhanh nhẹn nhằm tạo thuận lợi cho thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử của Bộ chính trị giao cho giải phóng Sài Gòn - Gia Định, giải phóng Miền Nam trước mùa mưa, kết thúc thắng lợi 30 năm đấu tranh cách mạng và khởi nghĩa vũ trang của nhân dân ta một cách trọn vẹn với thời gian nhanh nhất. Di tích nằm trong khu vực rừng cây, có rất nhiều suối nhỏ và ngắn đổ vào con suối lớn Căm Xe như suối Các Liễu, suối Ong Lô, suối Biên Lộc, suối Bà Già, suối Bà Thành….(Căm Xe theo lịch sử địa phương là một vùng đất lâu đời, có một khu rừng nguyên sinh với nhiều loại cây gỗ quý, bên cạnh có dòng suối. Chính dòng suối này, với những đặc điểm lợi hại mang tính chất “thượng võ” của nó đã tạo nhiều thuận lợi để quân và dân ta đánh đuổi kẻ thù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ). Đây là khu rừng tái sinh, rừng cây cũ đã bị chặt phá, rừng tái sinh cũng bị đốt nhiều lần. Vì di tích là một cơ quan tạm thời nên các lán trại, hầm hào tại đây chủ yếu được làm bằng vật liệu là gỗ có sẵn, sau thời gian dài mưa nắng phá hủy chỉ còn lại những vết tích khá mờ nhạt, chỉ có hố bom nơi đồng chí Văn Tiến Dũng lấy nước để sinh hoạt là còn khá nguyên vẹn. Theo người dân sinh sống nơi đây thì cứ đến tháng 3 thì đốt để trồng sắn. Hiện nay thì cảnh quan khu vực này đã thay đổi rất nhiều so với trước, rừng cao su bạt ngàn bao quanh khu vực di tích. Những dấu vết còn lại như: hố bom lấy nước sinh họat, dấu vết các hầm hào cũng đã mờ, cỏ cây mọc khá nhiều, phải rất khó khăn mới tìm được những dấu vết cũ do cỏ cây che khuất. Năm 1987 đại tướng Văn Tiến Dũng cùng một số đồng chí cán bộ miền về thăm và xác định vị trí trên cơ sở những dấu tích còn lại. Sau đó huyện đội Bình Long và nhân dân xã Minh Thạnh đã xây dựng bia làm mốc đánh dấu tại nơi đây. Bia được làm bằng chất liệu bê tông cốt thét, có độ cao 3m, rộng 2,5m, trên bia có gắn ngôi sao, dưới ngôi sao có ghi dòng chữ Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh, 30 tháng 4 năm 1975, xã Minh Thạnh. Đến ngày 20/8/1990, Bảo Tàng Quân Khu 7 xây dựng bia khác cách tấm bia cũ khoảng 3m, có chiều cao 15m, chiều ngang 1,5m, bia cũng được làm bằng chất liệu bê tông cốt thép. Đến năm 2005 được trùng tu lại bằng đá hoa cương cho đến nay. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3722 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử Chiến Khu D

Chiến khu Đ được hình thành vào tháng 2-1946 với địa bàn ban đầu bao gồm 5 xã: Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Thị Xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Trong từng giai đoạn lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc, phạm vi Chiến khu Đ lại có sự thay đổi. Chiến khu Đ là mật danh chỉ tổng hành dinh của Khu 7, nằm trong hệ thống các khu vực của khu tính theo thứ tự bảng chữ cái (A: Căn cứ giao thông liên lạc, B: Căn cứ hậu cần, C: Khu bộ đội thường trực). Về sau, mật danh Đ được dùng để chỉ luôn cả chiến khu rộng lớn. Ngoài ra, còn có một số cách lý giải khác: Đ mang ý nghĩa là “đỏ”, ý chỉ vùng chiến khu cách mạng kiên cường, một “địa chỉ đỏ” của cả nước; Đ là chữ cái đầu của địa danh Đất Cuốc - nơi bộ đội Huỳnh Văn Nghệ xây dựng cứ điểm đầu tiên; Đ là chữ viết tắt của chiến khu Đồng Nai, chiến khu miền Đông, chiến khu đầu tiên... Trên cơ sở phạm vi ban đầu gồm 5 xã thuộc huyện Tân Uyên, từ năm 1948 trở đi, Chiến khu Đ được mở rộng, lấy đường 16 từ phía tây và sông Đồng Nai từ phía nam làm ranh giới để mở rộng lên phía bắc tới Phước Hòa và phía đông tới sông Bé; sau đó tiếp tục vượt qua sông Bé phát triển mãi lên phía bắc và đông bắc. Dù vậy, phạm vi chủ yếu của chiến khu nằm trên vùng đất: Phía tây giáp đường 16, đoạn từ thị trấn Tân Uyên lên Cổng Xanh; phía bắc giáp sông Bé, đoạn từ cầu Phước Hòa lên Chánh Hưng; phía đông vẫn giáp sông Bé đoạn từ Chánh Hưng đến ngã ba Hiếu Liêm và phía nam giáp sông Đồng Nai, đoạn từ ngã ba Hiếu Liêm về thị trấn Tân Uyên. Sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, từ phạm vi chiến khu cũ (chủ yếu nằm trên địa bàn Tân Uyên), ta chuyển dần trung tâm căn cứ lên phía đông bắc. Đến đầu năm 1975, căn cứ được xây dựng hoàn chỉnh, phạm vi mở rộng tối đa. Lúc bấy giờ, Chiến khu Đ nằm trong phạm vi: Phía nam giáp sông Đồng Nai; phía tây giáp tỉnh Bình Dương và cắt qua địa phận hai tỉnh Phước Long, Bình Long (nay là Bình Phước); phía bắc vươn xa giáp biên giới Việt Nam - Campuchia (đoạn từ Bù Đốp đến Bù Đăng); phía đông giáp các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng. Chiến khu Đ được xem như một trung tâm kháng chiến, là nơi ra đời của các lực lượng vũ trang miền Đông Nam bộ. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Chiến khu Đ là một trong những căn cứ quan trọng của các cấp ủy Đảng, các tổ chức chính quyền và cơ quan chỉ huy quân sự thuộc nhiều huyện, tỉnh lân cận và cả Khu 7, Phân liên khu miền Đông và Nam bộ. Đây cũng là nơi ra đời các đơn vị vũ trang trong những ngày đầu kháng chiến, như: Chi đội 1, Chi đội 10, Trung đoàn 301, Trung đoàn 310, Liên trung đoàn 301 - 310, Tiểu đoàn chủ lực 303, Tiểu đoàn vận tải 320... Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Chiến khu Đ là nơi xây dựng, đứng chân các cơ quan lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang từ huyện, tỉnh, liên tỉnh, quân khu đến Trung ương Cục. Chiến khu Đ là nơi ra đời lối đánh đặc công, khởi đầu là trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên ở Tân Uyên ngày 19-3-1948, để từ đó hình thành bộ đội đặc công, phát triển lối đánh đặc công ra cả nước. Chiến khu Đ còn là nơi gắn liền với những chiến công vang dội của quân và dân miền Đông Nam bộ. Đặc biệt, đây là nơi xuất phát chiến dịch 12 ngày đêm (từ ngày 9 đến 21-4-1975) giải phóng thị xã Long Khánh, đập tan cánh cửa thép Xuân Lộc - tuyến phòng ngự cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn, mở đường cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Tồn tại gần 30 năm (1946-1975), Chiến khu Đ là một dấu son trong trang sử oai hùng của “Miền Đông gian lao mà anh dũng”. Với ý nghĩa lịch sử, tầm vóc và sự đóng góp của Chiến khu Đ qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, ngày 11-5- 2010, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Chiến khu Đ là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Báo Bình Dương điện tử

TP Hồ Chí Minh 5228 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử Địa đạo Tam Giác Sắt

Địa đạo Tây Nam Bến Cát (Tam giác sắt) nằm trên vùng đất 3 xã: An Điền, An Tây, Phú An thuộc khu vực phía Tây Nam thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Với vị trí và tầm vóc trong hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, Địa đạo Tây Nam Bến Cát được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia ngày 18/3/1996, có tổng diện tích 230.000m2. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trước đây, vùng đất 3 xã Tây Nam Bến Cát sớm được nổi danh với Chiến khu An Thành. Thuở đó, An Thành đã từng là nơi dừng chân của các cơ quan đầu não kháng chiến Khu Bộ miền Đông, xứ Ủy Nam bộ, Đặc Khu ủy Sài Gòn - Gia Định,… nhờ đó mà người dân địa phương sớm được giác ngộ cách mạng và đã từng đương đầu với biết bao thử thách ác liệt nhất trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy gian khổ và hy sinh của nhân dân ta. Năm 1948, hệ thống địa đạo đầu tiên xuất hiện từ vùng đất này. Sau đó năm 1960, du kích Củ Chi đến học tập kinh nghiệm và xây dựng hệ thống địa đạo ở địa phương mình. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, kẻ thù đã nhiều lần càn đi xát lại, nhưng chúng không khuất phục nổi lòng dân ở đây. Đến khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào trực tiếp chiến đấu ở Miền Nam, năm 1967 bằng đủ loại binh hùng tướng mạnh và những phương tiện giết người hiện đại nhất, chúng mở cuộc càn với quy mô lớn gồm 30.000 quân, 400 xe tăng, 80 tàu chiến, 100 đại bác và nhiều loại máy bay ném bom, kể cả máy bay B52 hòng hủy diệt mục tiêu quan trọng này. Nhưng dựa vào hệ thống địa đạo quanh co, chằng chịt, quân và dân ta lúc ẩn, lúc hiện bí mật bất ngờ mở đợt chống càn quyết liệt. Cuối cùng giặc Mỹ phải rút lui. Với sự thất bại thảm hại, 3.200 tên Mỹ ngụy bị diệt, 149 xe tăng và xe bọc thép bị phá hủy, 28 máy bay bị bắn rơi, 2 tàu chiến bị bắn chìm, bắn cháy… Trong trận này nổi lên anh hùng bắn tỉa - Nguyễn Văn Đực, chỉ 10 viên đạn tiêu diệt 9 tên xâm lược hoặc Võ Thị Huynh - anh hùng lực lượng vũ trang từng lăn mình dưới làn bom đạn để chăm sóc, bảo vệ thương binh. Sau những thất bại liên tiếp, kẻ thù đành bất lực, chúng phải gọi vùng này là vùng “Tam giác sắt”. Địa đạo Tây Nam Bến Cát không đơn thuần mang ý nghĩa địa danh mà nó là biểu tượng cho cách mạng, cho kháng chiến. Với phương tiện thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ky xúc đất bằng tre, quân và dân 3 xã đã tạo nên công trình đồ sộ với hàng trăm con đường hầm ngang dọc trong lòng đất, nối liền các xã với nhau như một ”Làng ngầm”. Các gia đình ở khu vực vành đai, nhà nào cũng đào hầm, hào nối liền vào địa đạo, tạo thế liên hoàn để vừa bám trụ sản xuất vừa đánh giặc giữ làng. Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi sau chiến đấu, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực thực phẩm, nước uống, có giếng nước, hầm nấu ăn, hầm làm việc, chỉ huy, hầm nuôi dưỡng thương binh. Địa đạo Tây Nam Bến Cát với các hoạt động của nó đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hai cuộc kháng chiến, nhất là trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Trong suốt 20 năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Địa đạo Tây Nam Bến Cát đã phát huy tác dụng của một địa đạo chiến. Dựa vào hệ thống địa đạo, quân dân 3 xã Tây Nam đã chiến đấu chôn vùi hàng ngàn tên giặc, bắn cháy và phá hủy hàng trăm xe tăng và xe bọc thép… Đặc biệt trong chiến dịch Mậu Thân 1968 và mùa xuân năm 1975, Địa đạo Tây Nam là nơi nhiều cánh quân lớn tập kết từ đây tiến đánh vào Sài Gòn, góp phần vào sự nghiệp kháng chiến thắng lợi của quân dân cả nước năm 1975. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3975 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Nhà tù Phú Lợi

Di tích nhà tù Phú Lợi Hiện tọa lạc trên đường Một Tháng Mười Hai, phường Phú Lợi, thị xã Thủ Dầu Một. Tổng diện tích hiện nay là 77.082m2,đã được nhà nước công nhận và xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia ngày 10/07/1980. Tồn tại suốt tám năm (1957-1964). Nhưng với tinh thần kiên cường bất khuất, các tù nhân Phú Lợi đã đoàn kết anh dũng đấu tranh thắng lợi. Với mưu đồ xâm lược miền Nam, bằng thủ đoạn mị dân, khủng bố đến chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” chỉ trong vòng 2 - 3 năm sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Mỹ Diệm gây không biết bao nhiêu tội ác trên cả miền Nam. Bằng khẩu hiện “thà bắt nhầm hơn bỏ sót”, chúng đã xây dựng thêm nhiều nhà tù. Nhà tù Phú Lợi là một trong những nhà tù lớn của Mỹ - Diệm ở miền Nam được dựng lên giữa năm 1957 để giam cầm và tra tấn các chiến sĩ cách mạng và những người yêu nước lúc bấy giờ. Số tù nhân chúng đưa về Phú Lợi đầu tiên có 4 nữ và khoảng 100 nam, đến cuối 1957 tăng lên 3.000 tù nhân. Chúng chia trại giam thành nhiều khu vực: khu hành chánh, khu gia đình binh sĩ, khu An Trí Viện – gọi là khu “An Trí Viện” nhưng thực chất là trại giam. Khu trại giam gồm có 3 trại: Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa. Cả 3 trại có 9 phòng giam đánh dấu A,B,C,D,… mỗi trại ngăn cách nhau bằng bức tường kẽm gai dày đặc. Bao quanh 3 trại là 2 bức tường cao, có mấy lớp kẽm gai, hệ thống đèn điện chiếu sáng vào ban đêm, hoàn toàn cách biệt với bên ngoài. Ở giữa trại giam có nhà vòm cao để quan sát toàn khu trại. Xung quanh có 4 cổng ra vào và 4 lô cốt canh phòng nghiêm ngặt. Có hai cổng chính: cổng thứ nhất mang bảng “Trung tâm cải huấn Phú Lợi”, cổng thứ hai mang bảng “An trí viện”. Đến cuối năm 1958, số tù nhân lên đến gần 6.000 người, trong đó có 1.000 tù nhân là nữ. Anh chị em tù nhân quê quán ở khắp mọi miền đất nước chẳng may rơi vào tay giặc và bị chúng tập trung về đây. Chế độ khắc nghiệt của nhà tù Phú Lợi cũng không khác ở nhiều nhà tù khác lúc bấy giờ, ăn gạo mục cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi… Sống bẩn thỉu, thiếu nước, nằm xà lim, chuồng cọp, lao động khổ sai bệnh tật không thuốc chữa trị… và những đòn điều tra đánh đập dã man… và chúng đặt ra “24 điều cấm” rất khắc nghiệt để lấy cớ đánh đập tù nhân. Trước những thủ đoạn vừa khủng bố vừa mị dân, những cảnh tra tấn dã man đày ải cực hình, anh chị em trong tù vẫn giữ được lòng kiên định và ý chí kiên cường chiến đấu. Đó là nhờ có sự lãnh đạo của Đảng và sự tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của những người yêu nước, những người cộng sản. Qua kinh nghiệm thực tế trong phong trào hoạt động bí mật, nên chỉ trong một thời gian ngắn các Đảng viên ở các trại đã tổ chức được đường dây liên lạc với nhau, các nhóm Đảng viên các chi bộ bí mật lần lượt được thành lập. Đầu năm 1958, Đảng ủy Trung tâm Phú Lợi được thành lập. Suốt những năm tháng ở đây, tù nhân có tổ chức bí mật của Đảng ta chỉ đạo. Ban Đại diện, Tổ Tâm giao, hoặc Đôi bạn đồng hương ở từng trại giam làm nòng cốt đấu tranh, từng bước đấu tranh với kẻ thù đòi cải thiện đời sống, chống đàn áp, chống tra tấn tù nhân. Tất cả là nhờ sự kiên trung của các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà tù Phú Lợi trở thành một bằng chứng về tội ác của Mỹ – Ngụy tại miền Nam Việt Nam; nơi đây là biểu tượng cho lòng dũng cảm của cán bộ đảng viên, các đồng chí cách mạng và đồng bào yêu nước đã ngã xuống trong nhà tù vì độc lập, tự do, hoà bình, hạnh phúc cho quê hương đất nước. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 4520 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật