Miếu Thiên Hậu tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, phường 11, quận 5, là ngôi miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của cộng đồng người Hoa – Quảng Đông, gốc ở huyện Tuệ Thành (Trung Quốc). Miếu được xây dựng vào năm 1760. Từ đó đến nay, miếu đã được trùng tu nhiều lần. Miếu có cấu trúc mặt bằng dạng chữ Quốc, chia làm 3 dãy: tiền điện, trung điện và hậu điện. Hội quán Tuệ Thành và truờng học nằm hai bên miếu. Nóc miếu được trang trí hoa văn hoa lá, hình nhân bằng gốm sứ do hai lò Bửu Nguyên và Đồng Hòa sản xuất vào năm Mậu Thân (1908), có cảnh "đả võ đài", "bái tổ vinh quy", mô tuýp "lưỡng long tranh châu", có hình ảnh tiên đồng, tiên nữ với hàng chữ "hòa hợp nhị tiên"... Hai con lân đá, chạm từ khối đá nguyên được đặt trong sân miếu. Tiền điện đặt hai trang thờ hai bên cửa vào. Bên trái thờ Thần Cửa (Môn Quan Vương Tả), bên phải thờ Phúc Đức Chánh Thần. Tại đây cũng có bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu và bức tranh lớn vẽ cảnh Bà hiển linh trên sóng nước. Bia công đức ghi lại sự đóng góp trùng tu miếu vào các đời: Đạo Quang thứ 8 (1828) và Đạo Quang thứ 10 (1830) – Tự Đức thập nhất niên (1857); Hàm Phong cửu niên (1859); Quang Tự - Mậu Tuất (1898)...Trung điện đặt bộ lư phát lam niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886) là bộ lư lớn nhất so với những bộ lư ở những miếu khác trong Thành phố. Tại đây cũng có kiệu lớn sơn son thếp vàng bằng gỗ tốt, dành rước Bà trong ngày vía. Bức hoành phi "Hàm Hoằng Quang Đại" treo tại đây, cho biết năm trùng tu xưa nhất của miếu (1800). Hậu điện là gian chính đặt thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Trên trang thờ Bà có 3 tượng lớn: tượng cao nhất dùng vào dịp vía bà, cung nghinh ra sân cho bà ngự lãm lễ hội; tượng giữa đặt trên trang thờ và tượng dưới cùng dùng đặt vào kiệu đưa đi diễu hành quanh các khu phố vào ngày lễ hội. Tại gian chính điện còn đặt 2 đại hồng chung bằng gang: một có niên đại 1795 đời vua Càn Long thứ 60 và một được đúc năm Canh Tuất 1850. Trong "Thiên Hậu cung" có đặt một thuyền gỗ ở góc, treo cờ ghi 4 chữ "phổ độ chúng sanh", dùng dâng cúng Bà vào ngày vía hàng năm. Hai bên trang thờ Bà còn đặt trang thờ Kim Huê nương nương bên phải và Long Mẫu nương nương bên trái... Gian phụ cũng đặt thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài. Tủ kính lớn gian chính điện đặt tượng Bát Tiên và tướng lịnh của Ariès ký tên: cấm các binh sĩ Pháp, Y-Pha-Nho phá phách miếu – được lưu giữ từ năm 1860. Ngoài các hiện vật quý, trong miếu còn có các pháp khí như: đỉnh trầm, lư trầm, lư hương bằng đá sa thạch... do người Hoa thành kính tín ngưỡng Bà đã dâng cúng. Là ngôi miếu quan trọng nhất ở Thành phố đặt thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu cùng một số hiện vật quý trong miếu, ngày 07/01/1993 miếu được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định của Bộ Văn hóa thông tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 1556 lượt xem
Miếu Nhị Phủ, Nhị Phủ hội quán hay còn được gọi là chùa ông Bổn, tọa lạc tại 264 đường Hải Thượng Lãn Ông, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Có tên là Nhị Phủ vì miếu được thành lập do sự đóng góp của người Hoa gốc ở hai phủ Tuyền Châu và Chương Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Về sau nhóm Tuyền Châu lập hội quán Ôn Lăng, nhóm Chương Châu lập hội quán Chương Châu (nay là Hà Chương). Không rõ miếu được xây dựng năm nào. Hiện nay trong miếu còn lưu giữ một chuông cổ. Trên chuông chỉ đúc hàng chữ "Nhị phủ Đại Bá Công Ất Dậu trong thu cát đán..." nên khó xác định niên đại. Trong "Cổ Gia Định phong cảnh vịnh", bài phú mô tả phong cảnh Gia Định từ năm 1770 đến năm 1815. Trên một câu đối treo ở chính điện hội quán Hà Chương (được thành lập sau miếu Nhị Phủ) có ghi năm trùng tu là Gia Khánh Kỷ Tỵ tức năm 1809. Như vậy hội quán này được xây dựng muộn nhất là vào cuối thế kỷ XVIII. Từ những dữ liệu trên, có thể nói "Ất Dậu"chạm trên chuông là năm 1765, cũng là năm thành lập miếu. Từ khi thành lập đến nay, miếu đã qua ba lần trùng tu lớn vào những năm 1875, 1901 và 1990. Dù vậy, miếu vẫn giữ được nét cổ kính qua phong cách kiến trúc và trang trí truyền thống của người Hoa - Phúc Kiến. Khuôn viên miếu rộng khoảng hai ngàn năm trăm mét vuông. Phần sân chiếm gần phân nửa diện tích. Không gian còn lại bao gồm các điện thờ, trụ sở hội quán và sân thiên tỉnh. Miếu có dạng nhà khung gỗ, mái ngói, tường gạch. Vách mặt tiền ghép bằng các phiến đá. Bộ khung gỗ được sơn màu đỏ, trang trí đẹp mắt bằng các bông sen chạm ngược ở đầu các thanh chống xà gồ dưới mái hiên, các tượng kỳ lân bằng gỗ đầu xà cột hay những diềm gỗ chạm lộng trên thanh ngang...Mái miếu lợp ngói ống, diềm mái là hàng ngói thanh lưu ly. Hình thức vì kèo "chồng rường - giá chiêng" khiến mái miếu hơi cong cộng với thiết kế tạo hình hai tầng mái và các đầu đỉnh mái, đầu đao uốn cong tạo cho ngôi miếu có dáng một chiếc thuyền rồng... Trên mái trang trí tượng cá hóa long, mai, lan, cúc, trúc, rồng, phượng... bằng gốm sứ nhiều màu sắc. Ơở gờ đỉnh mái có tượng lưỡng long tranh châu. Thân rồng không duỗi dài như thường thấy mà gần như dựng thẳng, đuôi xòe cao. Bên trong miếu bài trí đơn giản nhưng không kém phần trang nghiêm. Trên mỗi cột gỗ cao sơn màu đỏ, được kê bằng các chân đá chạm trổ mỹ thuật, có treo một hoặc hai câu đối. Nhiều câu đối cao hơn 3 mét, được làm cong theo chiều cong của cột. Hoành phi cũng được trang trí nhiều nơi. Có tất cả 14 câu đối và 30 hoành phi, phần lớn được làm từ năm 1864 đến năm 1901. Các hoành phi, câu đối được chạm viền chung quanh, bên trong chạm nổi các chữ Hán trên nền hoa văn rồng mây, sóng nước... ngoài ý nghĩa ca ngợi thần thánh còn có giá trị nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật chạm gỗ. Bàn thờ ông Bổn tức Phúc Đức chính thần, vị thần bảo hộ đất đai theo tín ngưỡng của người Hoa đặt giữa chính điện. Hai bên thờ Quảng Trạch tôn vương và Thái Tuế gia gia. Dọc hai bên thiên tỉnh trước chính điện là hai gian thờ Quan Thánh đế quân và Chúa Sinh nương nương. Hậu điện thờ Ngọc Hoàng đại đế, Thích ca Phật tổ và Quan Âm Bồ tát. Các vị thần, thánh được thể hiện bằng tượng gỗ hay thạch cao đặt trang trọng trong các khám thờ. Nổi bật nhất là khám thờ ông Bổn được làm năm 1894. Khám thờ bằng gỗ, sơn nhũ vàng, chạm trổ các đề tài lưỡng long tranh châu, ngô đồng - phượng, lân hàm châu... xen kẻ hoa văn đồng tiền, chữ thọ, các con vật miền sông nước như tôm, cua, cá... là một tác phẩm của nghệ thuật chạm khắc gỗ, một hiện vật quý của miếu. Ngoài ra còn có những hiện vật giá trị khác như chuông cổ bằng hợp kim đúc năm Ất Dậu (1765), chuông bằng gang làm năm 1875, tượng kỳ lân bằng đá, các bao lam, bình phông, hoành phi, câu đối... có niên đại cuối thế kỷ 19. Miếu Nhị Phủ được xem là một trong những đền miếu xưa nhất của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh. Là một công trình kiến trúc đặc sắc với nghệ thuật chạm đá, chạm gỗ tinh xảo, miếu Nhị Phủ không chỉ thể hiện sự giao lưu văn hóa Hoa - Việt mà còn đánh dấu sự định cư và phát triển của người Hoa Phúc Kiến, gắn liền với sự phát triển của Sài Gòn xưa. Ngày 31/8/1998 miếu Nhị Phủ đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 1811/1998/Quyết Định-Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 1572 lượt xem
Lệ Châu hội quán, nhà thờ tổ nghề thợ bạc tại Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc trên một khu đất rộng 805m2, tại số 586 đường Trần Hưng Đạo B, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một ngôi nhà đã tồn tại hơn 100 năm, là nhà thờ tổ nghề thợ bạc được xây dựng sớm nhất tại Sài Gòn và cả vùng Nam Bộ. Tác giả Vương Hồng Sển đã viết: "Đường Nguyễn Trãi đi một đoạn khỏi đường Tổng Đốc Phương gặp chùa Lệ Châu. Đây là "chùa tổ" thờ tổ sư của nhóm thợ và chủ lò kim hoàn. Sau những người Hoa kiều đồng nghề cũng nhập với đồng nghiệp Việt Nam nên mỗi năm cúng tổ long trọng và oai nghi lắm". Những năm cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một khu công nghiệp khá quan trọng. Thợ thủ công Sài Gòn có tay nghề cao và được tổ chức thành các "ty thợ", "phường thợ". Riêng nghề thợ bạc (nghề kim hoàn ngày nay) rất phát triển. Làm cho nhà nước thì có các ty: ty thợ bạc Nội, ty thợ bạc Tả Trung, ty thợ bạc Hữu Trung... Còn tư nhân thì tập trung lại thành các lò thợ bạc. Xung quanh vùng Chợ Lớn đã có tới hơn 30 lò thợ bạc hành nghề. Làm ăn phát đạt - Nhớ ơn tổ nghiệp. Một số chủ lò thợ bạc có uy tín ở vùng Chợ Lớn đã đứng ra vận động quyên góp từ các lò thợ bạc trong vùng và khắp các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ, kẻ ít, người nhiều, họ đã chung lưng góp sức mua được một vuông đất ở đường Thủy Binh (Rue des Marins tức đường Trần Hưng Đạo B ngày nay). Nhà thờ tổ được xây cất bắt đầu từ năm 1892 đến năm 1896 thì hoàn thành. Nhà thờ tổ đã trải qua nhiều đợt trùng tu lớn vào các năm 1920, 1934, 1946. Lần trùng tu lớn cuối cùng là tháng 8/1968 đã cất lại toàn bộ nghĩa từ và sửa chữa lớn ở chánh điện do bị bắn phá hư hại. Chánh điện được xây theo kết cấu ba gian dọc, có hai hàng cột chạy dài từ ngoài vào trong, tường gạch tô, mái lợp ngói âm dương. Bài trí ở chánh điện đơn giản, không có một pho tượng nào. Mặt trường chính của chánh điện đặt ba khám thờ được trang trí bằng những bao lam chạm trổ rồng, phụng, hoa, điểu... sắc nét công phu. Chính giữa là khám thờ lớn ở trong đặt các đồ thờ tự và bài vị với hai chữ "Tổ Sư" được viết theo lối đại tự đẹp, chân phương và được sơn son thếp vàng. Hai bên là hai khám thờ nhỏ, khám thờ bên phải đề hai chữ "Tiền Hiền", khám thờ bên trái đề hai chữ "Hậu Hiền". Từ ngoài vào trong dọc theo các hàng cột có 6 cặp câu đối và 9 bức hoành phi với nội dung tập trung vào chủ đề nhớ ơn tổ nghiệp, ca ngợi sự phát triển thịnh đạt của nghề thợ bạc. Tất cả các hoành phi, câu đối, bao lam... đều được sơn son thếp vàng với chất lượng giấy qui có độ tuổi vàng cao nên đều láng bóng và rõ nét, dù tất cả đều có niên đại khá lâu. Trong nhà thờ tổ còn tồn giữ được một số hiện vật khá độc đáo: Một cái trống lớn có chiều cao 1,10m, đường kính 0,60m, tang trống không phải bằng các mảnh gỗ ghép mà lại là một cây gỗ tròn lớn khoét rỗng. Đi đôi với trống là một quả chuông cao 1m, đường kính 0,50m, trên chuông để niên đại năm Ất Mùi (1895) do thợ Hà Nội chế tác và ghi rõ họ tên 14 người trong nghề thợ bạc phụng cúng để tỏ lòng thành kính tổ sư. Đặc biệt là 4 tấm bia đá đặt đối nhau ở hai bức vách chánh điện. Có tấm có niên đại 1895, có tấm để năm 1916, 1920. Trên các tấm bia khắc tên họ, tên hiệu, địa phương, số tiền đóng góp để xây dựng nhà thờ tổ. Qua đó ta thấy có mặt đệ tử nghề thợ bạc khắp Nam kỳ lục tỉnh: Tây Cống, Đề Ngạn, Trà Vinh, Bến Tre, Cần Thơ... người Hoa, người Việt. Bên cạnh những tên hiệu chữ Hán Nôm như: Thịnh Đức, Kim Phước, Đức Phát... còn có những tên hiệu rất Nam Bộ như: Năm Sương hiệu, Bảy Trừ hiệu... Theo truyền thuyết nhà thờ tổ sư nghề thợ bạc này, được dựng lên để thờ một vị tổ sư họ Trần (không rõ tên), quê từ miền ngoài vào, nguyên là thợ bạc trong cung nội, học nghề thợ bạc từ hai vị cao tổ của nghề kim hoàn Việt Nam là hai cha con: "Đệ nhất tổ sư"Cao Đình Độ (1743 - 1810, hiệu "Đệ nhất tổ sư" do vua Gia Long phong năm 1810) và "Đệ nhị tổ sư" Cao Đình Hương (1773 - 1821, hiệu "Đệ nhị tổ sư" do vua Minh Mạng phong năm 1821). Lễ giỗ tổ kim hoàn tại Lệ Châu hội quán được tổ chức vào ngày 7 tháng Hai (âm lịch), là ngày giỗ của vị "Đệ nhị tổ sư" Cao Đình Hương. Ngày cúng tổ hàng năm ở đây qui tụ rất đông các đệ tử của nghề thợ bạc từ khắp các vùng Nam Kỳ lục tỉnh. Lễ giỗ được tổ chức trong ba ngày từ ngày 6 đến ngày 8 tháng Hai (âm lịch). Hơn một thế kỷ trôi qua, ngôi nhà thờ tổ vẫn được Ban trị sự và các đệ tử của nghề thợ bạc bảo quản nguyên vẹn. Ngôi nhà không chỉ là nơi thờ cúng bình thường nói lên truyền thống "tôn sư trọng đạo", "uống nước nhớ nguồn" của những người hành nghề kim hoàn mà còn mang đậm những nét văn hóa đặc sắc về lịch sử đấu tranh cũng như quá trình phát triển của vùng Sài Gòn và Nam Bộ xưa. Vì lý do đó "Lệ Châu hội quán" đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 1811/1998/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 31/8/1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 1396 lượt xem
Chùa Bà Hải Nam hay Hội quán Quỳnh Phủ là tên gọi hội quán của người Hoa Hải Nam sinh sống ở khu vực Chợ Lớn, Quận 5. Theo nội dung ghi trên bia đá thì hội quán đã được xây dựng vào năm 1824 tại vùng đất “sơn thanh thủy tú” nơi “thuyền xe tấp nập, hàng hóa lưu thông”. Qua sáu lần trùng tu, hội quán mới có được qui mô như ngày nay. Hội quán được xây dựng theo kiểu nhà “tứ hợp diện”với bốn dãy nhà vuông góc nhau và hướng vào sân thiên tỉnh ở chính giữa. Dãy nhà tiền điện được thiết kế thành hai mặt, một mặt hướng ra sân hội quán và một mặt hướng vào thiên tỉnh. Tiếp sau tiền điện là trung điện và chính điện. Trung điện là nơi làm việc và tiếp khách của Ban Quản trị. Các bàn thờ tập trung ở chính điện. Ngoài án thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu còn có các án thờ Văn Xương Đế Quân, Phúc Đức Chính Thần, Tài Bạch Tinh Quân, Hoa Quang, Ngũ Thổ Long Thần và Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần. Đặc biệt, có các vị thần chỉ riêng thờ ở hội quán Quỳnh Phủ là Thủy Vĩ Nương Nương và Ý Mỹ Nương Nương (hai vị nữ thần bảo hộ người đi biển) và 108 thương nhân Hải Nam, sau khi gặp nạn trên biển đã rất hiển linh, được vua Tự Đức ban sắc phong vào năm 1851 và vua Duy Tân ban sắc phong vào năm 1922. Nét nổi bật ở hội quán Quỳnh Phủ là nghệ thuật đúc đồng, thể hiện qua bộ lư hương được đúc vào năm Quang Tự thứ 19 (1893) và một bộ ngũ sự đúc vào năm Quang Tự thứ 33 (1907). Bộ lư hương gồm một lư hương cao 0,7m, đường kính miệng lư rộng 0,9m và hai tượng hươu cao 1m, miệng ngậm giá nến, hoa mai trên thân hươu và đầu lân trên tay quai được tạo dáng sinh động, sắc sảo. Bộ ngũ sự gồm một đỉnh trầm chân vạc đúc nổi hình “Bát tiên thượng kỳ thú”(tám vị tiên cưỡi trên tám con thú quí), lưỡng long tranh châu (hai con rồng tranh viên ngọc) và hai độc bình, hai chân nến cũng được đúc nổi lưỡng long tranh châu trên nền mây, lửa. Kỹ thuật chạm khắc gỗ ở hội quán cũng đạt giá trị nghệ thuật cao, thể hiện trên các bao lam khám thờ, bao lam cửa, hương án, liễn đối, hoành phi… Bằng kỹ thuật chạm bong, chạm nổi, chạm lộng hoặc kết hợp chạm lộng với chạm nổi, các nghệ nhân đã tạo ra những phù điêu án thờ với hàng chục nhân vật hay những bao lam chạm cả hai mặt công phu, những khám thờ nhiều lớp bao lam…với những mô-tip Thập bát La hán, long lân qui phụng, trích đoạn truyện Phong Thần hay những con vật quen thuộc với đời thường như bầy cá quẫy đuôi, con cua đang kẹp râu con tôm trong bãi cỏ, dây bầu trĩu quả… Những tấm liễn gỗ cao hơn 3 mét, rộng hơn 4 tấc được uốn cong theo thân cột cũng là những tác phẩm nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật chạm chìm, chạm nổi. Đáng chú ý là một bộ gồm sáu tấm tranh sơn ta được làm vào năm 1963, tóm tắt truyện thơ Lục Vân Tiên của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Cạnh mỗi tranh vẽ là sáu câu thơ thể hiện nội dung bức tranh. Bộ tranh này cùng với bức bình phong bằng đá vân đen do vua Tự Đức ban tặng và sắc phong của vua Duy Tân thể hiện sự giao lưu, hội nhập giữa cộng đồng Hải Nam và cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Quỳnh Phủ Hội Quán – Miếu Bà Hải Nam thành phố Hồ Chí Minh đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng chứng nhận “Di tích lịch sử – văn hoá” cấp quốc gia bằng Quyết định số 52/2001/Quyết Định/Bộ Văn Hóa Thông Tin cấp ngày 28/12/2001. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 1307 lượt xem
Sau khi Hiệp định Genève 1954 được ký kết, Xứ ủy Nam Bộ đã sử dụng căn nhà số 51/10/14 đường Cao Thắng để làm cơ sở của Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ và một số đơn vị Khu Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Căn nhà có nền gạch, mái lợp ngói- nhà chính rộng 3,6m, dài 15m và nhà bếp rộng 3,6m, dài 6m. Tại đây, Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ đặt máy thu thanh và giao cho đồng chí Đỗ Văn Ba (tức Đỗ Văn Hạng), cán bộ Xứ ủy phụ trách cơ sở, thu tin từ Đài Phát thanh Hà Nội và biên tập thành tài liệu, in ấn, phát hành cho các cơ sở của Xứ ủy nắm tin tức và thực hiện chỉ thị của Trung ương đối với Nam Bộ. Ngoài ra, Ban Tuyên huấn Xứ ủy đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng có các đồng chí cán bộ lãnh đạo cao cấp của thành phố tham dự như đồng chí Trần Bạch Đằng, Phạm Dân, Tân Đức, Đỗ Văn Ba… cho đến khi Ban Tuyên huấn Xứ ủy chuyển về Chiến khu D năm 1957. Từ năm 1957 đến năm 1961, cơ sở Ban Cán sự thị xã Mỹ Tho và Ban Chấp hành phụ nữ giải phóng thị xã Mỹ Tho tiếp tục sử dụng ngôi nhà này để làm điểm tạm trú đồng thời là nơi móc nối liên lạc, hội họp chỉ đạo phong trào đấu tranh của tỉnh Mỹ Tho. Năm 1964, bà Trần Thị Ngọc Sương đã vận động được gia đình ông Tư Bôn ở nhà sát bên để mở rộng cơ sở cho Ban Trí vận Khu ủy sử dụng: nơi đây Anh hùng Lực lượng vũ trang Lê Thị Riêng (Cô Chín), Trưởng Ban Phụ vận Khu ủy cùng các đồng chí Nguyễn Thị Ngoan (Bí thư Ban Phụ vận nội thành), Nguyễn Thị Chơn, Trần Thị Lan, Ngô Bá Thành… đã từng sống và làm việc. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Thị Riêng, cơ sở Ban Trí vận Khu ủy đã viết, in và phát hành một số tờ báo như: “Phụ nữ”, “Sài Gòn vùng lên”, “Trung lập” và tổ chức đưa một số phụ nữ vào hoạt động trong các phong trào: “Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ”, “Phụ nữ đòi quyền sống”, “Đòi cải thiện chế độ lao tù”…Đặc biệt, trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng Vũ trang Ban Phụ vận cũng đã sử dụng nơi đây để cất dấu vũ khí chuẩn bị cho chiến dịch. Đồng chí Đoàn Lê Phong, Đỗ Ngọc Trinh (Bảy Hà), cán bộ Thành Đoàn sử dụng làm điểm tập kết lực lượng đi phá kềm ở Chợ Bàn Cờ, tổ chức may cờ đi treo và viết truyền đơn rải ở chợ kêu gọi đồng bào đấu tranh chống địch. Năm 1969, tại ngôi nhà này bà Trần Thị Ngọc Sương đã lưu trữ nhiều báo chí, tài liệu để chuyển đến cho phái đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Paris để nắm tin tức đấu tranh tại Hội nghị. Ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (30 tháng 4 năm 1975), Đoàn cán bộ tiếp quản thành phố của Thành ủy do đồng chí Phạm Khải (Ba Ka) dẫn đầu xuất phát từ ngôi nhà này đi tiếp quản Bưu điện và Tòa Đô chính Sài Gòn. Với những giá trị lịch sử đó , Cơ sở Ban Tuyên huấn xứ ủy Nam Bộ được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa /Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1998. Nguồn Trang thông tin điện tử quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 1403 lượt xem
Sở chỉ huy Tiền phương - Phân khu 6 (Đặc khu Sài Gòn - Gia Định) quyết định dùng tiệm phở Bình làm trụ sở tập kết các chiến sĩ, cán bộ để truyền đạt mệnh lệnh trong cuộc Tổng tiến công và Nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Ông Nguyễn Văn Tri, người được phân công phụ trách Sở chỉ huy Tiền phương đã báo cáo tình hình, động viên, bố trí công việc cho anh chị em tại đây, trao đổi với các cụm, rà soát lại các hầm ém vũ khí và các hợp đồng nhận vũ khí. Di tích là tiệm phở Bình, số 7 đường Yên Đỗ (nay là đường Lý Chính Thắng), phường 8, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Đó là căn nhà phố: 1 trệt, 3 lầu và 1 sân thượng. Mặt bằng tầng trệt có diện tích: 4m x 19m nở hậu, giữa có cầu thang bằng đá rửa. Phần trệt dùng làm tiệm phở, theo thiết kế bếp nấu chiếm nửa hành lang mặt tiền. Bên trong bố trí bàn ăn thực khách, chừa lối đi ở giữa. Cách ly nhà bếp, nhà vệ sinh, hồ nước với phòng thực khách có thang lầu dẫn lên tầng 1,2,3. Mỗi tầng được chia làm 2 phòng: phòng phía trước (có diện tích 3m x 3,5m) và phòng phía sau (có diện tích 3m x 4m). Một thang sắt bắc lên sân thượng. Mỗi lầu đều có hàng ba phía trước có kích thước 1,2m x 4m che chắn bên ngoài bằng tấm sáo trúc. Tiệm phở nằm trong trung tâm dân cư, rộng thoáng, khách ăn tương đối đông nên đơn vị biệt động dùng làm cơ sở liên lạc, tiếp nhận tài liệu. Ba chiến sĩ trong đội biệt động cũng được bố trí trong vai người giúp việc tại tiệm phở. Từ năm 1967, đã có nhiều cán bộ, chiến sĩ đến trú tại tiệm phở Bình công tác hoặc hội họp vài ngày. Khoảng một tháng trước Tết Mậu Thân, ông Hai Trí đến tiệm phở chỉ thị cho ông Ngô Toại gấp rút dự trữ lương thực cho khoảng 100 người dùng trong 1 tháng. Chấp hành mệnh lệnh, ông Ngô Toại tích trữ một số lương thực, thực phẩm (lương khô, đồ hộp, gà, vịt sống ...) Đêm ba mươi Tết Mậu Thân (năm 1968), chỉ huy các đơn vị biệt động thuộc Phân khu 6 đã tập kết tại nhà số 7 Đường Yên Đỗ chuẩn bị nhận nhiệm vụ: Đồng chí Tư Chu (Nguyễn Đức Hùng) được cử giữ chức Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Phân khu 6; Hai Trí (Nguyễn Văn Trí) - Chính trị viên cụm J9 (A30, đơn vị bảo đảm chiến đấu); Ba Đen (Ngô Thành Vân) - Đội trưởng A30, Đội trưởng đội biệt động 11 trong đợt 1 chiến dịch (đơn vị đánh tòa Đại sứ quán Mỹ); Ba Phong (Đỗ Tấn Phong) - Chỉ huy trưởng Cụm Biệt động 679 (trong đợt 1 chiến dịch);… cùng các cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ chuyên chở vũ khí, thông tin - cơ yếu và quân y. Mùng một Tết Mậu Thân (ngày 30 tháng 01 năm 1968), đồng chí Ba Thắng (Võ Văn Thành) - Chính ủy Phân khu 6 đến Sở Chỉ huy để chỉ đạo các đơn vị. Đêm mùng một Tết, trên tầng ba ngôi nhà, cán bộ, chiến sĩ, cơ sở, Ban Chỉ huy các cụm, các đội biệt động, các đơn vị phục vụ đã tập hợp đông đủ, chờ mệnh lệnh tiến công. Lúc 23 giờ 30 phút, thay mặt Bộ Chỉ huy Phân khu 6, đồng chí Ba Thắng đã đọc lời hiệu triệu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, phổ biến giờ và phát lệnh cho các cụm biệt động làm nhiệm vụ xung kích, tiến công các mục tiêu đầu não của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai tại Sài Gòn. Sáng mùng hai Tết Mậu Thân, nhận thấy có dấu hiệu cơ sở đã bị lộ, đồng chí Ba Thắng ra lệnh phân tán lực lượng tại đây, riêng các đồng chí hoạt động hợp pháp tiếp tục ở lại. Sáng mùng ba Tết Mậu Thân, khi các đồng chí chỉ huy đã rời khỏi, quân đội Sài Gòn bao vây tiệm Phở Bình, bắt hai vợ chồng đồng chí Ngô Toại, con gái, con rể và 13 cán bộ, chiến sĩ liên lạc còn ở lại theo yêu cầu nhiệm vụ. Đồng chí Ngô Toại bị địch tra tấn hết sức dã man trong 20 ngày vẫn không khai nhận điều gì. Đồng chí bị đày ra Côn Đảo và giữ lòng trung kiên với cách mạng cho đến lúc được trao trả tù binh sau Hiệp định Pa-ri 1973. Di tích cơ sở bí mật này của lực lượng Biệt động Thành là nơi phát lệnh tổng tiến công cho các đơn vị biệt động và lực lượng nổi dậy nội thành, ghi lại dấu mốc lịch sử quan trọng của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại Sài Gòn – Gia Định. Di tích còn là sự thể hiện tấm lòng yêu nước của nhân dân nội thành và tinh thần dũng cảm, bất khuất của các cán bộ, chiến sĩ cách mạng, đặc biệt là của lực lượng Biệt động Thành trong xây dựng lực lượng và chiến đấu. Di tích đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử qua quyết định số 1288 - Văn Hóa /Quyết Định ngày 16/11/1988. Nguồn Trang thông tin điện tử quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 1615 lượt xem
Năm 1910, Nguyễn Tất Thành rời trường Dục Thanh - Phan Thiết vào Sài Gòn (ngày 19 tháng 9 năm 1910). Người được cán bộ của Liên Thành thương quán là ông Trương Gia Mô (bạn thân của ông Nguyễn Sinh Huy, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh) và ông Hồ Tá Bang giúp đỡ đưa về ở tại căn nhà số 5 đường Châu Văn Liêm. Đây là một trong những cơ sở của Liên Thành thương quán, một tổ chức hoạt động cách mạng rất có uy tín tại Sài Gòn để sinh sống và chuẩn bị cho việc ra đi tìm đường cứu nước. Từ căn nhà này, Nguyễn Tất Thành vừa đi dạy học vừa đi làm và học nghề ở trường thợ máy École des Mécaniciens, có lúc đi bán báo ở khu vực thương cảng Sài Gòn để kiếm sống và tìm hiểu đời sống công nhân, nhân dân lao động cũng như các tàu ra vào cảng Sài Gòn. Trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành quen một số người Việt làm ở hãng Năm Sao (hãng tàu Năm Sao thường chạy tuyến hàng hải Sài Gòn - Đà Nẵng, Colombo và một số cảng của Pháp) như Nguyễn Văn Hùm, Bùi Văn Viên… Được biết hãng này đang tuyển “bồi”, Nguyễn Tất Thành và một số người Việt Nam đã đến xin việc và được hãng thu nhận. Ngày 4 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba (do các ông Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang và Trần Lê Chất giúp đỡ và đổi tên là Văn Ba trước khi vào Sài Gòn) đã rời cơ sở Liên Thành thương quán xuống con tàu của Pháp mang tên Amiral Latouche Treville. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, con tàu rời bến cảng Nhà Rồng - Sài Gòn đưa theo Văn Ba (Nguyễn Tất Thành) bắt đầu xa quê hương Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước. Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin và đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Suốt cả cuộc đời, Người đã vì nước, vì dân. Tư tưởng và đạo đức của Người luôn tỏa sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội - Chủ nghĩa cộng sản. Căn nhà số 5 đường Châu Văn Liêm có giá trị lịch sử - là nơi ghi dấu một giai đoạn rất quan trọng trong bước đường đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại đây, có một khu trưng bày những hình ảnh về Công ty Liên Thành và hình ảnh Sài Gòn thời kỳ 1910 - 1911. Với ý nghĩa lịch sử ấy, căn nhà này được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử Quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa/Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 1475 lượt xem
Đầu những năm 60 của thế kỷ 20, Bình Giã là địa bàn quan trọng đối với địch về quân sự, chính trị, kinh tế. Xung quanh Bình Giã, địch bố trí một lực lượng quân sự hùng hậu, được trang bị vũ khí hiện đại, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cố vấn Mỹ. Trước tình hình này, để tạo thế và lực mới cho cách mạng miền Nam, ngày 2-12-1964, ta quyết định mở chiến dịch Bình Giã. Lực lượng tham gia Chiến dịch Bình Giã của ta gồm có: 2 trung đoàn bộ binh (761 và 762), 4 tiểu đoàn trợ chiến (cối 81, ĐKZ 75, trọng liên 12,7) của Bộ Tư lệnh miền; 2 tiểu đoàn (d800 và d500) của Quân khu 7; đại đội 445 của tỉnh Bà Rịa; 1 tiểu đoàn (d186) của Quân khu 6 và lực lượng tại chỗ của địa phương. Vũ khí trang bị cho các lực lượng chủ yếu là vũ khí cũ và vũ khí lấy được của địch trong các trận chiến trước đó. Mặc dù lực lượng tham gia chiến dịch mỏng, trang bị vũ khí còn thiếu thốn và thô sơ nhưng dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Trung ương cục, Bộ Tư lệnh miền và đặc biệt là tinh thần chiến đấu anh dũng của các cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân, ta đã giành chiến thắng vang dội. Kết thúc Chiến dịch Bình Giã (7-3-1965), ta tiêu diệt gọn Tiểu đoàn thủy quân lục chiến 4, Tiểu đoàn biệt động quân 33 và Chi đoàn xe cơ giới M113; đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn khác và nhiều đại đội; bắn rơi, phá hủy 56 máy bay, 45 xe quân sự; tiêu diệt và làm bị thương hơn 1.700 quân địch; thu hơn 1.000 khẩu súng các loại và gần 100 máy thông tin. Qua chiến dịch, ta phá banh, phá rã nhiều “ấp chiến lược”, cơ bản giải phóng vùng nông thôn các huyện Châu Đức, Long Đất, Xuyên Mộc và một phần huyện Xuân Lộc. Nhờ vậy, căn cứ kháng chiến của ta được mở rộng từ Châu Pha, Hắc Dịch nối liền với chiến khu D. Chiến thắng Bình Giã có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với cách mạng miền Nam. Chiến thắng này đã chứng minh tính đúng đắn về đường lối cách mạng miền Nam của Đảng; chứng tỏ sự trưởng thành của quân đội ta về chiến thuật, chiến dịch và nghệ thuật chỉ đạo tác chiến; tạo bước ngoặt so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Bên cạnh đó, Chiến thắng Bình Giã còn có ý nghĩa chính trị to lớn ở trong và ngoài nước. Nó tăng thêm niềm tin tất thắng của toàn dân, toàn quân ta, từ đó tiếp tục vượt qua mọi khó khăn gian khổ, vươn lên giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vào ngày 30-4-1975. Để ghi dấu chiến công vang dội trong kháng chiến chống Mỹ trên vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu, Lãnh đạo và nhân dân trong Tỉnh đã xây dựng tượng đài Chiến thắng Bình Giã nằm sát bên quốc lộ 56, thị trấn Ngãi Giao. Khuôn viên Tượng đài rộng 20.000m2, gồm vườn hoa, khu Tượng đài, Đền thờ và các công trình phụ... Thân tượng cao 26m, màu ghi sáng, đặt trên bệ đá hoa cương đen cao 3m, tạo cảm giác mạnh mẽ. Với ba bàn tay nắm chặt đốc lê, phía trên là ba lưỡi lê vươn lên nền trời xanh tượng trưng cho ba thứ quân và ba mũi giáp công trong chiến thắng Bình Giã. Hai bên tượng đài là hai bức phù điêu (dài 7m, cao 3m) được ghép từ hàng ngàn mảnh gốm màu Bát Tràng (Hà Nội) thể hiện sự phối hợp chiến đấu và chiến thắng trong chiến dịch Bình Giã. Di tích đã được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 2754-Quyết Định /Bộ Trưởng, ngày 15 tháng 10 năm 1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1450 lượt xem
Khu căn cứ Núi Dinh thuộc địa phận 3 xã: Hội Bài, Long Hương và Châu Pha huyện Châu Thành tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Vào đời vua Gia Long, Núi Dinh thuộc tổng Phước An, phủ Long Phước, thị trấn Biên Hòa. Đời Minh Mạng, Núi Dinh thuộc phủ Phước Tuy, trấn Biên Hòa., trước 1975 thuộc tỉnh Phước Tuy, sau đó thuộc tỉnh Đồng Nai. Dãy Núi Dinh nằm về phía đông bắc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, là một dãy núi quan trọng trong tỉnh với nhiều ngọn núi cao: núi Cao 193m, núi Dinh cao 491m, núi Bao Quan 504m, núi Da Dâu 436m. Núi Dinh được cấu tạo bằng đá Granit trong, hạt mịn màu ghi hoặc đen rất có giá trị trong xây dựng. Địa hình củ Núi Dinh có vị trí chiến lược quan trọng, từ đây có thể bao quát, án nhữ toàn bộ khu vực phía đông Sài Gòn, phía bắc là thành phố Biên Hòa cách 97 km, phía đông là căn cứ Minh Đạm (Long Đất), phía nam là Biển Đông, phía tây là thành phố Vũng Tàu cách 22 km, sông Lòng Tàu và sông Thị Vải. ới địa thế hiểm trở và thuận lợi, Núi Dinh được Thị ủy Bà Rịa và huyện Châu Đức tỉnh BRVT chọn làm căn cứ cách mạng trong 2 thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Từ căn cứ vừa có thể quan sát tập hợp lực lượng thọc sâu vào trung tâm đầu não và uy hiếp địch. Ngược lại địch dễ dàng tập trung đánh căn cứ bất kỳ lúc nào vào lực lượng của ta trên căn cứ. Căn cứ cách mạng núi Dinh (quốc lộ 51, thuộc địa phận thị xã Bà Rịa và huyện Tân Thành) là di tích lịch sử cách mạng độc đáo của Tỉnh, trải dài trên một diện tích rộng địa hình phức tạp, an toàn trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của tỉnh. Hiện trạng cảnh quan di tích không có sự thay đổi nhiều. Cảnh quan và cây rừng được bảo vệ và phát triển tốt. Các hang động vách núi đá thiên nhiên, địa hình xưa kia tận dụng làm căn cứ vẫn còn nguyên vẹn, không có sự xâm hại bởi yếu tố con người. Di tích bao gồm các địa điểm: Hang Dây Bí, hang Tổ, hang Mai, hang Ông Trọng, căn cứ Bưng Lùng, hang Dơi, căn cứ Chùa Diệu Linh. Với giá trị lịch sử to lớn đó , khu căn cứ Núi Dinh được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng di tích quốc gia theo Quyết Định số 2015 Văn Hóa /Quyết Định, ngày 16/12/1993 của Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1609 lượt xem
Chùa nằm trên sườn Núi Nhỏ, hướng mặt ra biển. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc sắc sảo. Ngày 14/12/1989, chùa được Bộ Văn hóa, Thông tin công nhận xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định 1987. Trước chùa có một trụ Phướn cao 21m, có 42 não biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, trụ được đúc bê tông, dưới to, trên nhỏ dần, xung quanh ốp gạch men màu vàng đỏ, trên có ba nhánh búp sen tỏa đều ra ba hướng là một nét độc đáo của Niết Bàn Tịnh Xá. Hai bên cổng chùa đặt 2 pho tượng "Thần Thiện" và "Thần Ác". Khu chính điện thờ bức tượng "Phật Nằm" màu nâu hồng được đánh bóng công phu, khéo léo nằm nghiêng nhìn về hướng Tây, dài 12m và được đặt lên bệ thờ cao 2,5m. Mặt ngoài của bệ thờ có hình tượng các đồ đệ của Phật Thích Ca đang chứng kiến lúc ngài nhập điện. Phía trên đầu và sau lưng Đức Phật Nhật Niết Bàn là quang cảnh thiên nhiên xanh với 2 cây Long Thọ, điểm tô thêm con công, con hạc dang rộng cánh ẩn hiện trong mây, con sư tử, con hổ, con khỉ phủ phục Chầu Đức Phật viên tịch Nhập Niết Bàn. Tất cả đều được đắp nổi, chạm khắc công phu với màu sắc hài hòa, tạo nên khung cảnh vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh chốn cửa Phật. Phía trước chánh điện có một chiếc lư đồng Tứ Linh (Long, Ly, Quy, Phụng) có kích thước lớn, được trang trí khéo léo công phu là báu vật của chùa. Phía sau chánh điện là "Trai đường" của Chư Tăng. Trong phòng có treo 34 bức ảnh diễn tả lại cuộc đời đức phật từ khi sinh ra đến khi các đệ tử chia nhau Xá Lợi. Trong phòng còn bài trí nhiều tranh tượng khác như tranh Di Lặc Lục Trần... Khoảng sân lầu 3 có nhiều cây cảnh, nhưng đặc biệt là chiếc thuyền Bát nhã, hình tượng một con rồng lớn cách điệu, dài 12m, xung quanh được ốp mảnh sứ men lam, men màu. Thuyền tượng trưng cho sự cứu vớt con người ra khỏi khổ ải đến chốn vĩnh cửu bất diệt. Nổi bật trên sân này là một lầu chuông hình vuông, bốn mái uốn cong, trong tháp có một chuông lớn gọi là Đại Hồng Chung, cao 2,8m, chu vi 3,8m, nặng tới 3,5 tấn. Đây là chiếc chuông lớn nhất, nặng nhất và có âm vang hay nhất trong các chuông chùa hiện có ở Vũng Tàu. tương truyền rằng những ai đến đây khấn vái, cầu nguyện xin an lành nếu dán được mảnh giấy cầu an lên chiếc chuông này thì sẽ được toại nguyện. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1249 lượt xem
Nằm ở phía đông nam huyện Đất Đỏ, khu căn cứ Minh Đạm (hay còn gọi núi Minh Đạm) trước kia còn có tên gọi là Châu Long – Châu Viên. Núi Minh Đạm dài 8km và độ cao là 355m, với 3 mặt giáp biển cùng nhiều hang đá lớn nhỏ bí ẩn núp dưới những rừng cây, vách đá, suối nước ngọt róc rách quanh năm. Núi Minh Đạm được bắt nguồn từ tên ghép của hai chiến sĩ cách mạng đã hi sinh khi đang bị phục kích ở dưới chân núi – Bùi Công Minh và Mạc Thanh Đạm. Năm 1993, nơi đây đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (tiền thân của bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia và trở thành địa điểm du lịch về nguồn lý tưởng cho du khách. Núi Minh Đạm là nơi ghi nhận công ơn của các anh hùng dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Căn cứ hoạt động cách mạng ở núi Minh Đạm thời điểm đó có tên gọi là “chiến khu Minh Đạm”. Nay sau khi được trùng tu, xây dựng lại thành địa điểm tham quan du lịch có tên gọi ”khu di tích Minh Đạm”. Căn cứ núi Minh Đạm có 4 khu vực chính: Chùa Viên, Chùa Giếng Gạch, khu Châu Viên và khu Đá Chẻ được nối với nhau bằng con đường lát đá xuyên rừng. Tại đây, những dấu tích thuở xưa đang được bảo tồn là các kỷ vật thời chiến như bàn ghế, bếp núc, cầu gỗ cùng một số vật dụng thô sơ giúp cho khách tham quan có thể hiểu rõ hơn về cuộc sống sinh hoạt của bộ đội ta như cách tạo ra lửa từ đá, nấu cơm lam từ ống nứa... Đến với Núi Minh Đạm ngoài việc tìm hiểu về lịch sử, bạn còn được tham quan nhiều nơi lý thú, đặt chân vào những hang đá xưa kia từng là nơi làm việc, sinh hoạt của cán bộ, quân dân Bà Rịa – Vũng Tàu như hang Huyện Ủy, Quân Y, Quân Giới ….Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp( 1946 - 1954), dãy núi Minh Đạm là căn cứ của lực lượng cách mạng địa phương. Do địa hình núi phức tạp, khó tiếp cận, quân và dân ta đã chọn đây làm căn cứ chiến đấu bảo vệ cho các cuộc tấn công vào quân Pháp. Trong suốt thời gian này nhiều trận đánh lớn đã diễn ra tại đây, và quân đội Việt Minh đã lập được nhiều chiến công vang dội. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1955 - 1975), núi Minh Đạm tiếp tục trở thành căn cứ quân sự quan trọng của lực lượng cách mạng. Ngoài ra, Minh Đạm còn là nơi tưởng niệm những chiến sĩ hy sinh vì sự nghiệp dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1287 lượt xem
Nhà Tròn Bà Rịa là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia mang nhiều ý nghĩa về lịch sử, là nơi ghi dấu nhiều sự kiện quan trọng trong cuộc cách mạng vì độc lập của người dân Bà Rịa - Vũng Tàu. Được gọi là Chatoau deau, Nhà tròn Bà Rịa là một tháp nước nhưng tựa như tháp canh mà từ đây có thể quan sát nhiều hướng đường từ các tỉnh thành đi vào Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhà Tròn Bà Rịa có tổng chiều cao khoảng 20m, chân nhà tròn là nhà hình bát giác cao 4m, cạnh 6m, có 8 trụ thẳng đứng bằng bê tông cốt thép có các xà ngang cố định cột để đỡ bồn nước bên trên. Bồn chứa nước có đường kính hơn 7m, mái che của nó được lợp bằng tôn. Dẫn nước lên bồn có 2 đường ống lên và xuống được bố trí nằm giữa các trụ bồn và một thang sắt để tiện lên xuống. Phía dưới bồn nước khi xưa còn có lắp đặt loa báo động đến nay vẫn còn và hiện tại còn có thêm loa truyền thanh của huyện Châu Thành. Sau chiến tranh, Nhà Tròn Bà Rịa được tu sửa lại và hiện nay được dùng làm Câu lạc bộ Thanh niên Bà Rịa. Có lẽ trong các di tích lịch sử, Nhà Tròn Bà Rịa là một điểm nhấn khá khiêm tốn nhưng đã từng có vị trí và vai trò quan trọng trong lịch sử của địa phương. Đến nay với nhiều người, mỗi lần đi ngang qua Nhà Tròn, lại là một lần khơi gợi chặng đường đáng nhớ trong lịch sử có nhiều sự kiện đã diễn ra. Nhà Tròn Bà Rịa như biểu tượng của một kho ký ức của bao người về một thời đau khổ có, nước mắt có nhưng cũng đầy tự hào về sự can đảm, hy sinh cũng như tình yêu đất nước mãnh liệt. Nhà Tròn Bà Rịa được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia ngày 05/06/1987. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1327 lượt xem
Nhà Lớn Long Sơn là nơi thờ cúng đạo Khổng Tử, và nhà Thánh (thờ Khổng Tử). Chánh Điện là khu vực đầu tiên được xây dựng, tiếp sau đó là lầu Tiên, lầu Phật, lầu Cấm, nhà khách, vườn hoa và cổng tam quan lần lượt được xây dựng. Sau khi khu vực thờ cúng được hoàn thành, ông cho xây dựng lầu Dài, làm nơi nghỉ ngơi cho người đến thăm viếng, rồi tiếp tục xây 5 dãy phố cho cư dân đến lập nghiệp, trường học dạy chữ quốc ngữ và nhiều công trình thiết thực khác như nhà chợ, nhà máy xay lúa gạo, kho chứa thóc, nhà đèn, nhà thợ mộc, nhà bếp và nhiều hồ chứa nước ngọt … Tất cả những công trình này đều nằm trong một khu nên được gọi là Nhà Lớn. Sau khi ông mất, khu di tích này còn được gọi là đền Ông Trần. Nhà Lớn Long Sơn được xây dựng với phong cách pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian (trời, đất) với Nho giáo, Lão giáo của Khổng Tử. Đa phần các vật dụng chính trong Nhà Lớn đều được làm bằng gỗ xà cừ và cẩn hoa cương. Tại đây cũng có rất nhiều món đồ cổ quý giá như bộ tủ thờ, bộ lư hương và chân đèn cổ, nhiều bức hoành phi, liễn thờ, những vật dụng này được ông sưu tầm và đem về lưu trữ sau những chuyến hàng có lời từ Sài Gòn. Tín ngưỡng thờ Khổng Tử không yêu cầu quá nhiều nhang, đèn, kinh, kệ mà chủ yếu là những lời dạy, sách của đạo giáo mang ý nghĩa khai mở tri thức và khuyên răn con người. Du khách đến đây sẽ được đi tham quan hoàn toàn miễn phí, thậm chí còn được thưởng thức khoai mì, bánh ít trần, nhưng có một chú ý du khách nên chụp hình tại những nơi thờ cúng, chánh điện. Khi Ông Trần mất, ngoài đạo giáo của Khổng Tử, ở đây còn hình thành tín ngưỡng đạo ông Trần, vốn pha trộn nhiều đạo giáo khác nhau, nhưng chủ đích vẫn hướng con người đến với chân - thiện - mỹ. Con cháu của ông vẫn giữ gìn những phong tục, tập quán của ông, vẫn mặc quần áo bà ba, đi chân đất, tóc búi gọn gàng, để giữ vững hình tượng mà Ông Trần để lại, từ sinh hoạt đến cả tính cách đậm chất Nam Bộ. Nếu bạn có cơ hội ghé qua đảo Long Sơn, hãy nhớ ghé khu di tích Nhà Lớn Long Sơn, để tham quan Nhà Lớn và tìm hiểu về đạo Ông Trần. Với những giá trị văn hóa đặc sắc , khu di tích Nhà Lớn Long Sơn được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết Định số 1371 Văn Hóa /Quyết Định, ngày 03/08/1991 của Bộ Văn hóa Thông tin – Thể Thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1261 lượt xem
Trận địa pháo này cũng thuộc một trong ba trận địa, tạo thành tuyến phòng thủ Vũng Tàu của người Pháp được xây dựng cùng thời điểm với trận địa pháo cổ Núi Lớn. Trận địa pháo Núi Nhỏ có chức năng là chốt tiền tiêu và được bố trí thành ba cụm theo thế vòng cung bao quát cả vùng Biển Đông và Nam Vũng Tàu. Để xây dựng một trận địa pháo có thể nói là lớn nhất lúc bấy giờ thực dân Pháp đã bắt người dân lao dịch khổ sai dùng sức người xẻ đá ,phá núi làm đường, đào hào giao thông, xây hầm công sự đều làm bằng thủ công, phương tiện thô sơ đã cướp đi biết bao tính mạng, mồ hôi, xương máu của nhân dân ta. Với giá trị đó , Di tích Trận địa pháo cổ trên núi Tao Phùng (núi Nhỏ) được Bộ Văn Hóa Thông Tin theo Quyết Định số 57Văn Hóa/Quyết Định, ngày 18/01/1993 của Bộ Văn Hóa Thông Tin. Trận địa pháo cổ Vũng Tàu là bộ sưu tập vũ khí cổ lớn nhất Đông Dương, đây là một chứng tích lịch sử về sức mạnh phi thường của nhân dân ta. Từ Trận địa Pháo Núi Lớn du khách ôm theo bờ biển đi về phía Bãi Trước, đến đường Hải Đăng rẽ phải trước khi gặp đoạn đường cua đầu tiên hoặc đi theo lối vào Tịnh Xá Ngọc Bích và phía dưới chân tượng Chúa Ki Tô du khách bắt gặp một trong số 11 đại pháo của trận địa Núi Nhỏ được chia thành 3 cụm: + Cụm thứ nhất ngay dưới chân tượng chúa Ki tô, gồm 3 khẩu ở độ cao trung bình 136m so với mực nước biển và được đặt trong một công sự đào sâu dưới mặt đất. có đường kính 10,5m, ba cỗ pháo này có cùng kiểu dáng, cấu tạo, và cỡ đạn là 240mm, nòng dài 12,33mm, trên thân các cớ pháo đều ghi các dấu hiệu, kích cỡ nòng súng, kiểu dáng và năm sản xuất, trọng lượng của pháo và phân hiệu của đội. + Cụm thứ hai ( đặt tại Hải Đăng), gồm 5 khẩu, độ cao trung bình 91 m so với mực nước biển. Năm cỗ pháo này đều có cùng kiểu dáng, cấu tạo và cỡ đạn là 300mm. Trên thân pháo đều ghi các thông số cần thiết. . Cụm này nằm cách cụm pháo thứ nhất chừng 300m về phía Bắc. Hiện nay còn lại 04 khẩu, một khẩu chỉ còn lại mâm pháo do súng được chuyển về trưng bày trong bộ sưu tập súng cổ ở sân Bạch Dinh. +Cụm thứ (Tịnh xá Ngọc Bích), có 3 khẩu, ở độ cao trung bình khoảng 90m so với mực nước biển. Ba cỗ pháo của cụm này có cỡ đạn bằng nhau là 140mm. trên thân pháo đều ghi các thông số cần thiết. Hiện nay, 3 cỗ pháo này bị hoen rỉ hư hại nặng, các thông số cần thiết. Hiện nay, 3 cỗ pháo này bị hoen rủ hư hại nặng, các thông số bị mài mòn. Ba cỗ pháo được đặt riêng biệt trong ba công sự, cách đều nhau 27m và được nối thông với nhau bằng hệ thống giao thông hào và hầm trú ẩn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1288 lượt xem
Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở thành phố Vũng Tàu, có niên đại gần 200 năm + chùa được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1992 và được xem là một trong những trung tâm phật giáo ở địa phương, thường xuyên có tăng ni phật tử trong nước và quốc tế ( chủ yếu người Ấn Độ) đến thưởng ngoạn và hành lễ. Vào những ngày lễ lớn như tết Nguyên Đán, rằm tháng Giêng, lễ phật Đản, lễ Vu Lan...số lượng tăng ni phật tử về chùa rất lớn có khi không còn chỗ nghỉ. Vì vậy chùa đang có kế hoạch tu bổ, nâng cấp mở rộng chánh điện nhưng vẫn bảo tồn được những nét kiến trúc xưa để giúp tăng ni phật tử toàn tâm hướng về đạo, đồng thời là điểm đến hấp dẫn khách hành hương, di lịch tâm linh. Chùa có kiến trúc dạng tứ trụ của chùa cổ miền Nam với hệ thống tượng phật phong phú : cạnh hồ sen là pho tượng Quan Âm Nam Hải cao 3,5m, chính điện có các pho tượng Di Dad, Tam Tôn, Thích Ca, A Nam, Ca Diếp, Phật nhập Niết Bàn, Tượng chuẩn Đề bằng gỗ, tượng ông Giám bằng đất nung... Đặc biệt, chùa còn lưu giữ tượng thần Vish NU bằng đá, có niên đại cuối thời phù Nam- Chân Lạp (khoảng thế kỷ thứ 7) rất quý hiếm.Thần VIsh Nu là thần bảo tồn vũ trụ thường ở các tháp Chàm Miền Trung Nam Bộ. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1270 lượt xem
Di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba (ấp Bình Đức, xã Bình Ba, huyện Châu Đức), là khu tưởng niệm 3.050 anh hùng liệt sĩ của Trung đoàn 33 đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng thời, là nơi yên nghỉ tập thể của 53 cán bộ, chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 - Trung đoàn 33 đã hy sinh anh dũng trong trận chiến không cân sức với kẻ thù (quân chư hầu Úc) ngày 6/6/1969. Đây là di tích lịch sử mang nhiều giá trị về lịch sử, khoa học quân sự, ca ngợi sự dũng cảm hy sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc của những người lính bộ đội cụ Hồ cùng với tình yêu thương đùm bọc của nhân dân các địa phương nơi các đồng chí đóng quân và chiến đấu đã giúp cho các đồng chí đứng vững trên chiến trường, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngày 29/12/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4248/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch xếp hạng di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba, thuộc xã Bình Ba, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là di tích cấp quốc gia để bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Đây là sự ghi nhận giá trị lịch sử, văn hóa của di tích lịch sử này, đồng thời ghi nhận những nỗ lực của Đảng bộ, Nhân dân Châu Đức, Ban Liên lạc cựu chiến binh Trung đoàn 33 và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của Di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba. Nguồn Sở Văn Hóa Thể Thao tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1258 lượt xem
Chùa cổ Long Bàn còn gọi là chùa làng Long Điền (xưa thuộc tổng An Phú Thượng, quận Long Điền) ở thôn Long Phượng, Thị Trấn Long Điền, huyện Long Điền. Chùa tọa lạc trên một khu đất cao tương đối bằng phẳng. Trải qua gần 175 năm xây dựng chùa vẫn gần như nguyên trạng, lưu giữ những nét kiến trúc văn hóa nghệ thuật đặc sắc. Chùa được xây dựng vào năm Thiệu Trị thứ 5 - năm Ất Tỵ 1845 do 2 vị hòa thượng Hải Chánh và Bảo Thanh làm trụ trì đầu tiên và được dân làng tôn làm tổ sư. Kiến trúc chùa Long Bàn nguy nga, tráng lệ với những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc mang đậm nét truyền thống độc đáo, lưu giữ văn hóa tâm linh, thờ phượng Phật pháp. "Theo truyền thuyết, vùng đất Long Điền trước kia có 9 con rồng chầu. Ngôi chùa được xây dựng trên phần cuối cùng của dãy núi Thùy Vân, có nhiều tảng đá tự nhiên phẳng như bàn thạch nên dân làng đặt tên là chùa Long Bàn", sư thầy Thích Pháp Minh diễn giải. Ngôi chùa được xây cất theo kiểu chữ "Tam", mang phong cách Á Đông gồm 3 lớp nhà song song là tòa Giảng đường, tòa Chánh điện, nhà Tổ. Khuôn viên chùa bằng phẳng, rộng hơn 3.000m2 với nhiều cây cổ thụ tỏa bóng mát. Cổng chùa được xây dựng mới năm 1963 bằng đá hoa cương. Cửa 2 bên cuốn vòm, phía trên là lầu chuông và lầu trống. Phía trên 2 trụ cổng là tấm biển có hàng chữ "Long Bàn Cổ Tự". Trước tòa Chánh điện của chùa có ngôi nhà sàn bằng gỗ, trong đặt tượng "Tiêu Diêu Đạo Sĩ". Mái chùa được lợp ngói âm dương, đầu ngói có gờ viền bằng gốm men xanh. Trên đỉnh nóc chùa có gắn tượng "Lưỡng Long chầu nguyệt" và các bức tranh vẽ phong cảnh sơn thủy, hoa lá. Các kèo, cột bên trong chùa sử dụng hoàn toàn bằng gỗ tốt. Bên trong tòa Chánh điện, ở gian giữa thờ Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Quan Âm, Thế Chí, Ngọc Hoàng, Di Lặc, Bồ Tát. Gian bên trái thờ vị sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma, gian bên phải thờ Quan Thánh. Ngoài ra, tại đây còn có bàn thờ La Hán và Thập điện Diêm Vương. Phía sau Chánh điện là nhà thờ Tổ, thờ Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma và 2 bài vị của hòa thượng Hải Chánh và hòa thượng Bảo Thanh. Tòa Giảng đường rộng 227m2, mặt trước có những câu đối khắc chìm bằng sơn đen. Phía trên 3 cửa ra vào gần sát mái là những ô trang trí, miêu tả hoa, núi và các hoạt động của con người. Đây là nơi thuyết pháp về đạo Phật, làm đàn chay cúng cô hồn, tổ chức các giờ kinh sám hối. Đã trải qua gần 175 năm xây dựng, nhưng chùa Long Bàn vẫn còn lưu giữ được nhiều hiện vật lâu đời quan trọng như các pho tượng Phật, Ngọc Hoàng Thượng đế, Quan Thánh đế, 18 vị La Hán, Long Thần, Hộ Pháp… bằng gỗ mít; 8 khuôn in kinh khắc chữ Hán trên gỗ; các quả chuông, trong đó có đại hồng chung bằng đồng đường kính 0,4m, cao 1,2m, niên đại hơn 150 năm. Chùa Long Bàn với vẻ đẹp độc đáo về kiến trúc cổ, điêu khắc nghệ thuật mang giá trị văn hóa tâm linh lâu đời, tọa lạc giữa không gian hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, ngôi chùa trở thành điểm đến tín ngưỡng Phật pháp của người dân địa phương và du khách gần xa. Năm 1991, chùa cổ Long Bàn được Bộ Văn Hóa -Thể Thao công nhận là di tích lịch sử - văn hóa - danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1410 lượt xem
Bạch Dinh được dùng làm nơi nghỉ dưỡng và hội họp cho toàn quyền Pháp ở Đông Dương và quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn sau này. Đây cũng chính là nơi giam lỏng vua Thành Thái (từ 1909-1910), một vị vua có tư tưởng yêu nước, chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp. Được tọa lạc ở vị trí cao ráo cách mực nước biển gần 30m, từ tiền sảnh Bạch Dinh nhìn xuống, du khách sẽ có cảm giác như đang ở tầng lầu của một tòa cao ốc xây dựng trên mặt nước biển, có thể phóng tầm mắt bao quát cả trung tâm thành phố Vũng Tàu. Có hai lối lên Bạch Dinh: Một đường uốn quanh chạy dưới rừng cây giá tỵ dành cho xe hơi lên tới tiền sảnh. Một đường đi bộ qua 146 bậc tam cấp cổ xưa, kín đáo nằm giữa hai hàng sứ cao niên. Bạch Dinh với lối kiến trúc Châu Âu cuối thế kỷ 19, cao 19m, rộng 15 m, dài 28 m, gồm 3 tầng: Tầng hầm làm nơi nấu nướng; tầng trệt vừa làm nơi khánh tiết vừa dùng bày trí một số hiện vật cổ xưa như: Song bình bách điểu chầu phụng, bộ tràng kỷ hoàng gia có niên đại Khải Định (1921), cặp ngà voi châu phi dài 170cm… Tầng lầu thoáng hơn dành cho việc nghỉ dưỡng. Nhưng có lẽ ấn tượng hơn cả là 8 bức chân dung tạc các vị thần Hy Lạp thời cổ đại, từ gương mặt, mắt mũi đến sắc thái đều biểu hiện rõ ràng, sắc nét và tinh tế. Trải qua hơn thế kỷ, với bao biến đổi của thời gian, Bạch Dinh vẫn giữ nguyên tính sang trọng, hài hòa và uy nghiêm hiếm thấy. Từ năm 1991 đến nay một phần của Bạch Dinh được dùng làm bảo tàng, trưng bày 8.000 hiện vật độc bản nằm trong bộ sưu tập cổ vật gốm sứ có niên hiệu Khang Hy (Thế Kỷ 17) được trục vớt từ “kho báu Hòn Cau”. Các nhà khảo cổ cho biết số cổ vật này nằm dưới đáy biển gần 300 năm, tính đến thời điểm trục vớt nhưng vẫn giữ được màu men tuyệt đẹp. Nếu đem so với những bộ sưu tập khác được trục vớt trong vùng biển Cù Lao Chàm, Cà Mau, Bình Thuận… bộ sư tập cổ vật Hòn Cau vẫn luôn được đánh giá là bộ sưu tập đẹp nhất. Bạch Dinh không chỉ làm mê mẩn toàn quyền Pháp ở Đông Dương Paul Doumer, các quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ mà cho đến thời điểm hiện tại thì đây cũng là một trong số rất nhiều địa điểm tham quan của Vũng Tàu, thu hút được đông đảo khách du lịch đến tìm hiểu về lịch sử và tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên. Với những giá trị đó ngày 4 tháng 8 năm 1992, Bạch Dinh đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1239 lượt xem
Di tích Địa đạo Long Phước thuộc xã Long Phước, cách trung tâm thành phố Bà Rịa khoảng 7 km về phía Đông Bắc. Đây là một chứng tích hào hùng của quân và dân ta trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế Quốc Mỹ xâm lược. Ngoài ra, Địa Đạo Long Phước còn là một công trình sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Di tích được công nhận là di tích quốc gia theo quyết định số 34/Văn Hóa.Quyết Định ngày 09/01/1990 của Bộ Văn hóa Thông tin. Do có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, là đầu mối căn cứ địa cách mạng của tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, nằm trên trục lộ giao thông (lộ 52 và 23), trục nối đường liên tỉnh Bà Rịa – Long Khánh nên Long Phước luôn là địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta với địch trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Năm 1948 nhằm bảo toàn lực lượng và củng cố phong trào cách mạng và cũng để đảm bảo tính mạng và tài sản của nhân dân khi có địch càn quét của địch, Đảng bộ Long Phước đã phát động phong trào đào hầm bí mật trong toàn xã. Đến năm 1949, Chi bộ xã đã có Nghị quyết xây dựng địa đạo vừa để bảo toàn lực lượng và có thể đánh trả địch. Thực hiện Nghị quyết của chi bộ quân và dân Long Phước đã phát triển hệ thống địa đạo ở 5 ấp: Đông, Tây, Nam, Bắc và Phước Hữu. Các cụm địa đạo được nối với nhau bởi đường xương sống, có hầm bí mật chứa lương thực dự trữ với các công sự chiến đấu. Đường địa đạo xương sống cách mặt đất 2-3m, lòng địa đạo cao 1,5-1,6m, rộng 0,6-0,7m đảm bảo đi lại, vận chuyển dễ dàng. Tiền thân là căn hầm nhà ông Năm Hồi với chiều dài 300 mét, nhờ đó tháng 10 năm 1949 lực lượng vũ trang cách mạng đã chiến thắng cuộc càn quét của giặc Pháp giữ vững ấp và cơ sở cách mạng. Năm 1963 địa đạo được khôi phục và phát triển ở ấp Nam Tây chiều dài 200m, có cấu trúc thêm giao thông hào, ụ chiến đấu, kho lương thực, hầm cứu thương. Địa đạo đã trở thành thế trận vững chắc để lực lượng cách mạng bám trụ kiên cường đánh bại nhiều cuộc tấn công, lấn chiếm của địch, điển hình là trận chiến 44 ngày đêm ( 05/3-01/4/1963). Ngày 05/3/1963 tiểu đoàn 61 do Quận trưởng Long Lễ trực tiếp chỉ huy cùng với lực lượng dân vệ có xe M113 yểm trợ đánh phá ấp Bắc Long Phước. Phía ta giữ vững trận địa 3 ngày liền chống trả sự tấn công của địch. Hai trung độ 445, C20 bộ đội huyện và du kích xã dựa vào hào giao thông, ụ chiến đấu để tiêu hao sinh lực địch. Ngày 08/3/1963, địch tăng cường thêm Tiểu đoàn biệt động quân 38, pháo binh và xe M113 càn quét ác liệt tại Long Phước. Đến ngày 01/4/1963 toàn bộ hào giao thông rơi vào tay giặc, các lỗ châu mai bị bịt kín. Cửa chính của địa đạo bị hai xe M113 đè lên. 250 chiến sĩ và nhân dân của ta rút hết xuống địa đạo, với sự chỉ huy của chính trị viên Nguyễn Minh Ninh các chiến sỹ của ta sử dụng quả mìn câm chế lại giao cho đồng chí Mười Dẫm và Sáu Bảo đột phá và đặt vào xích xe M113 rồi điểm hỏa. Khi mìn nổ chiếc xe bị hất tung, quân ta nhanh chóng trườn lên rút chốt trái sang, sử dụng các loại vũ khí ồ ạt tấn công. Trước đoàn bất ngờ, mau lẹ bọn địch không kịp trở tay và phải tháo chạy. Đây là trận chiến đấu lớn thu được nhiều thắng lợi: Tiêu diệt và làm bị thương 143 tên địch, phá hủy 12 xe M113 và đánh bại trận càn quét của địch với lực lượng đông gấp bội có thiết giáp, không quân và pháo binh yểm trợ. Trong suốt hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân và đế quốc, quân và dân Long Phước đã đào được tổng số 3.600 mét địa đạo, trong đó ấp Đông 650 mét, ấp Bắc 2.700 mét, ấp Nam 250 mét. Trải qua bao mưa bom, bão đạn địa đạo và quân dân Long Phước vẫn đứng vững kiên cường, xứng danh vùng đất một thời đạn bom vẫn được xem như “ núm sữa”quan trọng nuôi dưỡng phong trào cách mạng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và xứng đáng với danh hiệu cao quý mà đảng nhà nước ban tặng “ Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Địa đạo Long Phước là nơi ghi dấu truyền thống cách mạng hào hùng, là niềm tự hào, kiêu hãnh của thế hệ mai sau, là nơi thể hiện đường lối chiến tranh nhân dân mưu trí, sáng tạo của quân và dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong hai thời kỳ kháng chiến. Hiện nay địa đạo Long Phước đã được tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho trùng tu, tôn tạo, có phòng trưng bày truyền thống đón du khách trong và ngoài nước đến tham quan và tìm hiểu về lịch sử cách mạng. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1308 lượt xem
Địa điểm căn cứ Trung ương Cục miền Nam (1961-1962) được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số 02/2001/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 19/01/2001. Hiện nay, Căn cứ Trung ương Cục miền Nam tọa lạc xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Trước yêu cầu mới của cuộc cách mạng, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra nhiệm vụ chiến lược cho hai miền Nam - Bắc. Đặc biệt với cách mạng miền Nam tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Trung ương Đảng về chủ trương, đường lối và tổ chức thực hiện. Ngày 23/01/1961, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam và chỉ định Ban chấp hành gồm 08 đồng chí do đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc - Bí thư Trung ương Cục. Đồng chí Võ Chí Công (Võ Toàn) - Phó Bí thư; đồng chí Phan Văn Đáng (Hai Văn) - Phó Bí thư. Các đồng chí ủy viên gồm: Phạm Văn Xô (Hai Xô), Phạm Thái Bường, Võ Văn Kiệt, Trần Lương, Trương Công Thuận. Trung ương Cục miền Nam được giao nhiệm vụ lãnh đạo toàn bộ chiến trường miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào. Hội nghị Trung ương Cục lần thứ nhất đã đề ra nhiệm vụ cấp bách là xây dựng các cơ quan chuyên môn giúp cấp ủy đề ra các chủ trương, đường lối, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các chủ trương, chỉ đạo nghiệp vụ cho cấp dưới và đào tạo cán bộ thuộc ngành phụ trách. Các cơ quan chuyên môn gồm: + Văn phòng: do đồng chí chí Lê Vụ (Bảy Thành, Dư Khánh, Bảy Khánh) làm Chánh văn phòng. + Ban Tổ chức - Tuyên huấn: do đồng chí Phan Văn Đáng – Trưởng ban; đồng chí Nguyễn Văn Ngượt (Ba Lâm, Ba Rừng) và đồng chí Lê Tự Nhiên - Phó ban. + Ban cơ yếu: do đồng chí Nguyễn Văn Chín làm Trưởng ban; đồng chí Trần Tiến Liên và Nguyễn Hoàng làm Phó ban. + Ban Hậu cần: Do đồng chí Lý Văn Kỷ làm Trưởng ban; đồng chí Nguyễn Hữu Tân (Năm Mộc) làm Phó ban. + Ban An ninh: đầu tiên gọi là Ban bảo vệ An ninh Trung ương Cục, sau đổi thành Ban An ninh Trung ương Cục; do đồng chí Phạm Thái Bường - Trưởng ban; đồng chí Cao Đăng Chiến (Sáu Hoàng) - Phó ban. + Ban Quân sự Miền: Tư lệnh Trần Quang (Bảy Tiến); Chính ủy Trần Lương. Nhiệm vụ chỉ đạo tác chiến, xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang , xây dựng hình thành ba thứ quân. + Ban Kinh tài: do đồng chí Phạm Văn Xô (Hai Xô, Hai Già) làm Trưởng ban; đồng chí Nguyễn Văn Phi làm Phó ban. Từ căn cứ này, Trung ương Cục đã xây dựng các cơ quan chuyên môn cấp ủy; đề ra các chủ trương, đường lối; chỉ đạo và lãnh đạo nhân dân miền Nam trường kỳ kháng chiến trong suốt thời gian chiến tranh ác liệt tới ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng; bằng những chiến công vang dội như chiến thắng Hiếu Liêm, Phước Thành… góp phần tô đẹp thêm những trang sử oai hùng của quân dân miền Nam. Trải qua thời gian dài tồn tại và phát triển dưới sự tàn phá của chiến tranh, thiên nhiên và con người di tích Căn cứ Trung ương Cục miền Nam bị xuống cấp, hư hỏng. Năm 2004, thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đồng Nai đã tiến hành trùng tu, tôn tạo di tích Căn cứ Trung ương Cục miền Nam với các hạng mục: nhà bia, nhà trưng bày, đền tưởng niệm... nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị di tích và thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam xem như nơi đây là địa chỉ đỏ nhằm giáo dục thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Nguồn Cổng thông tin huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
Đồng Nai 1385 lượt xem
Địa đạo Nhơn Trạch tọa lạc tại ấp 5, xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, còn được gọi là địa đạo Phước An vì khi xưa di tích thuộc xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa. Được biết, trước đây từ giữa năm 1963 cho đến cuối năm 1964, hệ thống địa đạo được đào 1.500m đường địa đạo với nhiều ngõ ngách, hầm bí mật. Hệ thống địa đạo liên hoàn khép kín được thiết kế có dạng gần giống chữ chi (Z). Đường xương sống địa đạo được 200m thì được trổ ngách sang hai bên để tạo thành phòng chức năng cho các đơn vị. Tại điểm chính giữa ở mỗi đoạn xương sống địa đạo (100m) được bố trí hai lỗ thông hơi hình phễu úp. Nhiều đoạn địa đạo thiết kế với nhiều đường thẳng gấp khúc, chiều dài mỗi đoạn khoảng 100m. Kích thước của địa đạo tính từ vòm tới đáy dao động: cao 1,8m đến 2m, ngang 1m đến 1,2m. Nóc địa đạo có cấu trúc hình vòm. Ngăn cách giữa các đoạn với nhau bằng một ngăn bí mật có nắp đậy kín, độ dày của ngăn là 1m được khoét một lỗ tròn có đường kính vừa thân người. Miệng chính của địa đạo được bố trí tại trung tâm căn cứ có kích thước dài 2m ngang 1m50, sâu 7m dẫn vào xương sống địa đạo. Độ sâu 7m tính từ mặt đất tới đáy địa đạo được đào theo hình rích rắc tạo thành những bậc thang. Phía trên địa đạo là căn cứ Huyện ủy được bố trí như một tam giác đều, mỗi cạnh dài 70m với ba mặt là giao thông hào sâu 2m, rộng 1m20 tạo thành hệ thống giao thông khép kín. Cách bố trí này được gọi bố trí theo kiểu “kiềng ba chân”, cả ba mặt giao thông hào được xây dựng 7 ụ chiến đấu, mỗi ụ có kích thước ngang 2m, dài 3m, sâu 1m20; phía trên lắp cây, đắp đất dày 1m, ba mặt bố trí ba lỗ châu mai. Bên ngoài hệ thống giao thông hào được bố trí hai hàng chông sắt lớn nhỏ và tầm vông vạt nhọn xen kẽ. Cuối cùng là ba lớp hàng rào kẽm gia. Dẫn vào căn cứ duy nhất có một con đường mòn nằm về phía tây bắc của rừng Lòng Chảo. Tại căn cứ này, quân dân Nhơn Trạch đã làm nên những chiến thắng vang dội trong những năm 1965 - 1970. Từ năm 1972, địa đạo Nhơn Trạch trở thành nơi bám trụ dài ngày của 500 cán bộ chiến sĩ Đoàn 10 Rừng Sác, là nơi xuất phát đánh địch ở các hướng sông Lòng Tàu, kho bom Thành Tuy Hạ… gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Với những giá trị to lớn đó, Địa đạo Nhơn Trạch đã được Bộ Văn hóa và Thông tin (Nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào ngày 19/01/2001. Ngày nay Địa đạo Nhơn Trạch là địa điểm về nguồn để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Giới trẻ đến để tham quan, tưởng nhớ công lao to lớn của cha ông xưa từ đó tu dưỡng đạo đức, nhân cách, cố gắng phấn đấu, cống hiến để xứng đáng với sự hi sinh to lớn của thế hệ đi trước. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Đồng Nai 1835 lượt xem
Khu ủy miền Đông Nam bộ (1962 - 1967) được Bộ Văn Hóa Thông Tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 3744-Quyết Định/Bộ Văn Hóa Thông Tin, ngày 29/11/1997. Tháng 6/1960, Bộ Chỉ huy lực lượng vũ trang giải phóng miền Đông (quân khu miền Đông) và Khu ủy miền Đông (T1) được chính thức thành lập, đặt cơ quan lãnh đạo, chỉ huy tại ngọn suối Linh (gọi là căn cứ 820) thuộc chiến khu Đ. Khu ủy miền Đông do đồng chí Mai Chí Thọ (Tám Cao) làm Bí thư. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến được cử làm chỉ huy trưởng, đồng chí Lâm Quốc Đăng làm chỉ huy phó. Các cơ quan Khu đều đóng dọc theo suối Linh. Tại đây, Khu ủy, Bộ Tư lệnh quân khu đã đứng chân trong suốt thời gian dài lãnh đạo chỉ đạo phong trào, mệnh lệnh tác chiến; nơi đứng chân và tổ chức chiến đấu bảo vệ các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy. Khu căn cứ tọa lạc trên đỉnh đồi đất sỏi khá bằng phẳng, độ dốc thoai thoải, diện tích trên 28ha, độ cao 20m so với bề mặt suối Linh. Toàn bộ khu đồi được bao phủ bởi rừng cây dày đặc trong hệ thống rừng nguyên sinh miền Đông. Một phần căn cứ được bao bọc bởi suối Linh quanh năm nước trong vắt, các loài hải sản dồi dào là nguồn thực phẩm vô tận cung cấp cho các lực lượng quân giải phóng. Căn cứ Khu ủy được cấu thành bởi: Hệ thống giao thông hào có tổng chiều dài 569m, sâu từ 50 đến 60cm, rộng 60cm phân làm ba tuyến (tuyến phòng thủ vòng trong, vòng ngoài và phục vụ cho việc canh gác và chiến đấu. Hệ thống địa đạo liên hoàn theo hướng Đông - Bắc và Tây - Nam có chiều dài trên 260m. Đường đi trong lòng địa đạo có nhiều đoạn gấp khúc, gãy góc, quanh co, có các ngã ba nối thông các đoạn địa đạo với nhau hoặc dẫn lên các miệng địa đạo tại các cửa hầm. Hệ thống miệng địa đạo độc lập chủ yếu dạng hình tròn và chữ nhật, độ sâu từ 3-4m trong các phân đoạn của hệ thống địa đạo. Hệ thống hầm trú ẩn được bố trí đều khắp trên mặt căn cứ, nơi làm việc của lãnh đạo Khu uỷ và các cơ quan trực thuộc gồm: văn phòng, cơ yếu, phục vụ, vệ binh… Ngoài ra, trong Khu căn cứ còn có hệ thống bếp Hoàng Cầm và giếng nước phục vụ cho sinh hoạt. Nằm ở vị trí thuận lợi cả về phòng thủ và tấn công, cách bố trí khoa học, Khu ủy miền Đông Nam bộ là địa bàn đứng chân của Khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu trong suốt thời gian từ 1962 - 1967. Từ đây, Khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang phối hợp với quân chủ lực miền Nam làm nên những chiến thắng vang dội như: Phước Thành, Hiếu Liêm, Bình Giã, Đồng Xoài, Đất Cuốc, Bàu Sắn... Từng bước làm phá sản hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt ” và ''Chiến tranh cục bộ '' của Mỹ - ngụy, mở rộng và bảo vệ an toàn căn cứ, chuẩn bị mọi mặt cho Tổng tiến công nổi dậy Xuân 1968. Trải qua thời gian, năm 2001, di tích Khu ủy miền Đông Nam bộ được phục hồi lại toàn bộ diện mạo gồm: Hệ thống địa đạo, hệ thống giao thông hào, hầm trú ẩn, văn phòng… Sau khi trùng tu, tôn tạo di tích thường xuyên đón tiếp nhiều đoàn khách trong và ngoài nước; các đồng chí lãnh đạo Trung ương đến tham quan, ôn lại truyền thống hào hùng của một giai đoạn lịch sử đã qua. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng Căn cứ Khu ủy miền Đông còn đó như một minh chứng lịch sử hào hùng cho tinh thần, lý tưởng cách mạng cao cả của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; nỗi ám ảnh cho cho kẻ thù xâm lược và cảm hứng cho văn học thi ca nhân loại. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
Đồng Nai 1302 lượt xem
Ngày 15-4-1966, một binh chủng đặc biệt được thành lập và trở thành bất tử với tên gọi Trung đoàn Đặc công rừng Sác anh hùng. Chiến khu Rừng Sác trải rộng trên diện tích hơn 2.200ha, thuộc các huyện Nhơn Trạch, Long Thành (Đồng Nai) đến H.Cần Giờ (Thành Phố Hồ Chí Minh). Hoạt động trong một điều kiện hết sức khắc nghiệt, giữa rừng ngập mặn, ngay sát nách quân thù với trang thiết bị, vũ khí tối tân, những người chiến sĩ đặc công thủy của Đoàn 10 Rừng Sác chỉ có “trái tim yêu nước nồng nàn, cộng với trí thông minh và trái bộc phá, con gao găm” (lời của đại tá - Anh hùng lực lượng vũ trang Lê Bá Ước, nguyên Trung đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đoàn 10, nguyên Phó chỉ huy kiêm Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai). Hơn 9 năm bám trụ, Đoàn 10 đã thực hiện hơn 600 trận đánh, hoàn thành mục tiêu khống chế toàn bộ hệ thống vận tải thủy tiếp tế cho Sài Gòn và phía Nam, đồng thời lập những chiến công vang dội ngay ở nội đô. Hơn 900 người đã hy sinh, đến nay còn hơn 500 liệt sĩ chưa tìm thấy... Tuy địa hình, cảnh quan nơi đây vẫn giữ được tương đối với hệ thống động thực vật phong phú nhưng do căn cứ làm chủ yếu bằng các vật liệu thô sơ như: Lá dừa nước, thân cây đước, sau khi chuyển sang địa điểm khác, hệ thống nhà làm việc, các cơ sở binh công xưởng của Sở Chỉ huy Đặc khu quân sự Rừng Sác và Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác bị phá hủy hoàn toàn. Trên khu đất của căn cứ xưa hiện có tấm bia đá tưởng niệm do đại tá Lê Bá Ước (đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác) lập để tưởng niệm các đồng chí, chiến sỹ đã hy sinh tại Đặc khu quân sự Rừng Sác. Việc đầu tư, tôn tạo di tích góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ và cũng để tỏ lòng tôn kính, tri ân các anh hùng liệt sỹ đã chiến đấu và anh dũng hy sinh tại đây. Căn cứ Sở chỉ huy Đặc khu quân sự Rừng Sác và Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác tại xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia tại Quyết định số 2105/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 08/7/2014. Nguồn Bộ Văn Hóa , Thể thao và Du lịch.
Đồng Nai 1364 lượt xem
Ngày 23/9, Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch đã ban hành Quyết định số 3068/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch xếp hạng di tích quốc gia cho Di tích lịch sử Địa điểm vụ thảm sát Giồng Sắn, thuộc xã Phù Đổng, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, địa điểm Giồng Sắn là nơi diễn ra vụ thảm sát của chính quyền Sài Gòn ngày 25/10/1965 làm 536 thường dân chết và rất nhiều người khác bị thương. Sau sự kiện này, huyện uỷ Nhơn Trạch đã tổ chức một cuộc biểu tình với hơn 1.000 người tham gia, phản đối hành động sát hại dân lành của chính quyền Sài Gòn. Cuộc biểu tình gây nên dư luận căm phẫn lớn trong cả nước, lên án sự độc ác, tàn bạo của quân đội Sài Gòn. Cuộc thảm sát này cũng dấy lên dư luận, được báo chí nước ngoài đưa tin, lên án. Để tưởng nhớ những người đã mất trong chiến tranh, năm 2004, huyện Nhơn Trạch khởi công xây dựng công trình Bia - Công viên tưởng niệm Giồng Sắn trên diện tích 15.000m2, đây là di tích ghi dấu, tố cáo tội ác của kẻ thù trong cuộc thảm sát thường dân vô tội diễn ra trên vùng đất Nhơn Trạch của tỉnh Đồng Nai. Địa điểm Giồng Sắn đã được UBND tỉnh Đồng Nai xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2004. Nguồn Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du lịch.
Đồng Nai 1511 lượt xem
Khu di tích Đoàn 125 (ấp Suối Râm, xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ), nơi khai sinh của lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia và cũng là nơi an nghỉ của 49 chiến sĩ Campuchia được xem là một biểu tượng của tình đoàn kết Việt Nam-Campuchia. Cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, Thủ đô Phnom Penh của nước bạn Campuchia cũng được giải phóng vào ngày 17/4/1975. Tuy nhiên, ngay sau đó, cách mạng Campuchia lại bước vào thời kỳ đen tối bởi nạn diệt chủng của chế độ Khơ me Đỏ do tập đoàn Pol Pot-Yeng Sari đứng đầu. Trước tình hình đó, được sự giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, những chiến sĩ cách mạng chân chính Campuchia, trong đó có đương kim Thủ tướng Vương quốc Campuchia, ngài Samdec Hun Sen, đã sang Việt Nam để xây dựng lực lượng, đấu tranh lật đổ chính quyền diệt chủng Khơ me Đỏ. Ngày 12/5/1978, tại ấp Suối Râm, xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ, đơn vị tiền thân của lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia - Đoàn 125 được thành lập, do ngài Hun Sen làm Chỉ huy trưởng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, đã có 49 chiến sĩ của Đoàn 125 hy sinh tại đây. Cùng với các lực lượng yêu nước khác của Campuchia, Đoàn 125 đã phát triển thành quân đội hùng mạnh, lật đổ chính quyền Pol Pot, giải phóng nhân dân và đất nước Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Ngày 2/1/2012, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Vương quốc Campuchia Hun Sen, Khu di tích lịch sử địa điểm thành lập Đoàn 125 được khánh thành và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đã cấp bằng công nhận là Khu di tích văn hóa lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai.
Đồng Nai 1441 lượt xem
Mộ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh Thiên Địa Hội tọa lạc trên khu bình địa tổng kho Long. Bình, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa. Đây là nơi an táng Đoàn Văn Cự, lãnh đạo hội kín Thiên Địa hội ở Biên Hoà cùng 16 nghĩa binh đã đứng lên kháng chiến chống lại quân Pháp. Đền thờ có kiến trúc đẹp, bao gồm nhà võ ca và chánh điện, là nơi tưởng nhớ và cầu nguyện cho Đoàn Văn Cự và các nghĩa binh. Mộ và đền thờ Đoàn Văn Cự được Bộ Văn hóa - thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia tại Quyết định số 722/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 25 tháng 4 năm 1998. Di tích gồm hai phần: mộ và đền thờ. Phần mộ là nơi an táng nhà yêu nước Đoàn Văn Cự, thủ lĩnh hội kín “Thiên địa hội” ở Biên Hòa và 16 nghĩa binh tử trận trong trận tấn công của Pháp vào bưng Kiệu năm 1905. Đây là nơi căn cứ kháng chiến của nghĩa binh “Thiên địa hội” Biên Hòa. Ngôi mộ tọa lạc trên khu bình địa, sát bên dòng suối Linh Tuyền, cách trung tâm thành phố Biên Hòa khoảng 8 km. Ban đầu chỉ là ngôi mộ chôn cất đơn sơ; năm 1956 được nhân dân địa phương xây đắp lại nhưng quy mô nhỏ, mãi đến 1990 ngôi mộ mới được xây dựng bề thế như hiện nay. Ngôi mộ hình chữ nhật dài 16,5 m, rộng 2 m cao 0,75 m, phía sau là ngôi miếu nhỏ thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh. Khu mộ được bảo vệ bởi hai vòng rào bằng gạch, có cổng ra vào, gần như bao quanh khu mộ là dòng suối Linh Tuyền. Ngôi đình cũng được xây dựng từ năm 1956, cách phần mộ khoảng 1km về hướng Đông Bắc. Đền tọa lạc trên khu đất bằng phẳng, rộng gần 3000 m2, thuộc phường Tam Hiệp, trên quốc lộ 15. Ngôi đền được xây dựng theo kiến trúc chữ tam (/) gồm hai phần chính: nhà võ ca và chánh điện. Nhà võ ca có diện tích 303,75 m2 đối diện với đền thờ chính. Bên trong có sân khấu nhỏ dùng để hát bội trong những dịp lễ. Một sân khấu đối diện với chánh điện. Trước khi vào chánh điện phải qua nhà Bái. Đây là nơi khách thập phương ra vào hành lễ. Nối tiếp nhà Bái là chánh điện; phía sau chánh điện là nhà khách và nhà bếp. Đoàn Văn Cự sinh năm 1835 tại làng Bình An, huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa (nay là quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh) trong một gia đình nho học yêu nước. Ông lãnh đạo hội kín thiên địa hội ở Biên Hòa, một tổ chức yêu nước chống Pháp. Ông đã quy tụ đông đảo lực lượng nghĩa quân tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp (trước khi Đảng Cộng Sản ra đời). Để ngăn chặn ảnh hưởng và dập tắt phong trào ngay từ trong trứng nước, sáng ngày 12 tháng 4 năm 1905 một tiểu đội lính mã tà do tên Sen Đầm chỉ huy kéo xuống bao vây căn cứ Bưng Kiệu. Tên quan ba cùng tốp lính vượt suối Linh tiến vào. Đúng lúc không có quân canh phòng giặc Pháp ồ ạt tấn công. Đoàn Văn Cự đã bị trúng đạn hy sinh trước bàn thờ tổ cúng 16 nghĩa binh. Sau đó nhân dân địa phương đã an táng Ông và 16 nghĩa binh cùng một ngôi mộ. Mặc dù thời gian đã trôi qua, tấm gương can liệt của Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa Binh vẫn mãi là tấm gương sáng về lòng yêu mến sự hy sinh của ông và các nghĩa binh mãi mãi được lịch sử lưu danh và ghi nhớ muôn đời. Nguồn Cục di sản văn hóa.
Đồng Nai 1402 lượt xem
Từ ngã ba Vũng Tàu, theo quốc lộ 51 nối liền thành phố Biên Hoà với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, ngôi mộ của Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh chống Pháp nằm về bên trái, cách quốc lộ 51 khoảng 250m, cách trung tâm huyện Long Thành khoảng 7km về hướng Nam. Di tích hiện là kết quả của lần tái thiết vào năm 1936 và các đợt trùng tu, tôn tạo sau này. Sau khi trùng tu tôn tạo năm 2010 khu mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh toạ lạc trên khu đất cao ráo với tổng diện tích là 27.402m2,diện tích trong hàng rào hiện hữu là 3.837m2 (trong đó diện tích xây dựng là 1.262m2), diện tích đất tạo khoảng lùi xây dựng là 4.571m2 và đất chừa đường đi cạnh hông ngoài khu đất là 570m2. Khu mộ có vị trí như sau: Bắc giáp: Khu đất trồng tràm, tre trúc và nhà vườn. Nam: giáp quốc lộ 51. Đông giáp: Vườn tràm và ruộng lúa. Tây giáp: Đường mòn - con đường đi lại trong xã Long Phước. Nhìn tổng thể, toàn khu mộ được bố trí theo một trục chính, lấy theo trục mộ Nguyễn Đức Ứng ra đến quốc lộ 51 hình thành nên khu đất với bề ngang là 65m,được chia đều ra hai bên theo trục chính. Tổng thể khu mộ được bố trí thành năm khu có vị trí như sau: Cổng tam quan, khu nhà đón tiếp khách : diện tích 5.204m2, khu trồng cây lưu niệm: diện tích 2.084m2, khu nhà bia,đền thờ : diện tích 6.438m2, khu mộ chính : diện tích 6.502m2. Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh hy sinh trong cuộc chiến đấu đánh trả quân Pháp xâm lược ngày 26-27 tháng 12 năm 1861. Sau khi Nguyễn Đức Ứng và các Nghĩa binh anh dũng hy sinh, nhân dân Long Thành tìm cách đưa thi hài Ông và các nghĩa binh về an táng trong ngôi mộ chung trên một khu đất cao của khu rừng nguyên sinh, ngay căn cứ kháng Pháp của Ông thuộc xã Long Thuận (nay là xã Long Phước, huyện Long Thành). Theo quan niệm phong thuỷ truyền thống thì ngôi mộ nằm trên gò đất hình lưng quy, vị thế cát địa, ảnh hưởng tốt cho sự an cư lạc nghiệp của dân chúng cư trú trong khu vực. Cũng từ đây, mảnh đất này trở thành nơi yên nghỉ ngàn đời của Ông và các nghĩa binh hy sinh vì Tổ quốc, có thể coi như là nghĩa trang liệt sĩ đầu tiên của huyện Long Thành. Mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh chống Pháp được trùng tu vào các năm 1936, năm 1996 và năm 2010. Kiến trúc xây dựng trong tổng thể khu đất tuân theo định hướng chung, nêu bật được ý tưởng “con nhà võ”. Mái ngói nhà bia và đền thờ mang dáng mái đặc trưng của cung đình Huế, triều đại nhà Nguyễn. Với giá trị đó , khu di tích Mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 Nghĩa binh chống Pháp đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 2754-Quyết Định /Bộ Trưởng ngày 15 tháng 10 năm 1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Đồng Nai 1336 lượt xem
Tọa lạc tại phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Đây được xem là thành cổ duy nhất ở Nam Bộ còn tồn tại đến ngày nay. Dấu tích còn sót lại của ngôi thành xưa là một vòng thành được xây dựng bằng đá ong bao quanh khuôn viên rộng 10.816,5 m², bên trong có ngôi nhà kiến trúc theo kiểu Pháp. Thành cổ Biên Hòa còn có các tên gọi khác là Thành Cựu, Thành Kèn hay Thành Xăng Đá, xưa thuộc thôn Bàn Lân (Tân Lân), huyện Phước Chánh, tỉnh Biên Hòa. Ban đầu, Thành Biên Hòa được nhân dân và binh lính Lạp Man Chân Lạp đắp bằng đất vào khoảng thế kỷ 14 -15. Sau đó, vào đầu thời Nguyễn, đến năm 1834, vua Minh Mạng cho xây lại bằng đất, gạch và đá ong, theo hình cánh cung, xây dựng mới một số hạng mục, đặt tên là Thành Cựu. Đến năm 1837, vua Minh Mạng tiếp tục cho xây dựng mở rộng Thành Cựu bằng đá ong theo kiểu Vauban, đổi tên là Thành Biên Hòa. Nhận thấy vị trí địa lý thuận lợi về mặt chiến lược của Thành Biên Hòa, thực dân Pháp đã tập trung binh lực hùng hậu nhằm chiếm đóng tòa thành này. Năm 1861, thực dân Pháp đánh chiếm Biên Hòa. Quan quân nhà Nguyễn kháng cự không thành nên rút lui khỏi Thành Biên Hòa. Sau khi chiếm thành, thực dân Pháp đã bắt tay cải tạo, thu hẹp diện tích thành còn lại 1/8 so với trước kia; đồng thời cho xây dựng các cơ sở an ninh, quân sự bên trong và bên ngoài thành, như: doanh trại, nhà thương, sở an ninh quân đội, bãi tập, bãi bắn, phòng giam, phòng làm việc…; bố trí các sĩ quan cấp cao, binh lính để trấn giữ, bảo vệ, làm việc trong suốt thời gian cai trị, khai thác thuộc địa và gọi tên là Thành Xăng - Đá (Solda), nhân dân địa phương thường gọi là Thành Kèn. Năm 1944, thành rơi vào sự kiểm soát của phát xít Nhật. Sau khi quay lại Đông Dương lần 2, Pháp đã trưng dụng nơi đây làm trại gia binh. Đến giai đoạn 1954-1975, thành không có nhiều thay đổi về diện mạo, đế quốc Mỹ sử dụng lại toàn bộ các công trình do thực dân Pháp để lại. Sau năm 1975, thành Biên Hòa do chính quyền mới tiếp quản. Những dấu tích còn lại tại di tích Thành Biên Hòa ngày nay nổi bật là vòng thành được xây dựng bằng đá ong và hai ngôi nhà có kiến trúc theo kiểu Pháp. Cụ thể, các hạng mục còn sót lại bao gồm: phần tường thành được xây dựng chủ yếu từ đá ong đỏ, gạch thẻ với chất kết dính là vôi vữa. Hệ thống lô cốt hiện còn một số lô cốt được xây bằng đá ong và gạch thẻ ở góc Đông thành. Biệt thự phía Tây Bắc, một trong những hạng mục còn sót lại của công trình kiến trúc thành Biên Hòa xưa gồm 1 tầng trệt và 2 tầng lầu được xây dựng theo kiểu kiến trúc Pháp dùng làm nơi ở và làm việc của sĩ quan Pháp. Biệt thự có kết cấu kiến trúc chắc chắn với tường chịu lực, mái lợp ngói móc, dàn mái xà gồ thép kết hợp cầu phong gỗ, sàn lát gạch, lanh tô vòm cuốn gạch, cửa mái thông gió đều được thực hiện với tính thẩm mỹ về nghệ thuật, sự khéo léo về kỹ thuật, đảm bảo tính chịu lực tốt cho công trình. Biệt thự phía Đông Nam với diện tích khoảng 200m2, gồm 1 trệt và 1 lầu, dùng làm nơi ở và làm việc của các sĩ quan Pháp lúc bấy giờ. Ngày nay, sau lần trùng tu gần nhất vào năm 2014, tổng thể di tích đã trở nên khang trang, trở thành địa điểm tham quan thu hút du khách gần xa. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, di tích Thành Biên Hòa là chứng nhân cho nhiều sự kiện và biến cố trong lịch sử của vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai. Bắt đầu từ các cuộc giao tranh giữa các vương quốc Phù Nam, Chân Lạp, Chăm Pa (thế kỷ1-15) đến cuộc chiến giữa nhà Nguyễn với quân Tây Sơn (thế kỷ XVIII) và sau này là cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đồng thời, đây cũng được xem là công trình thành cổ hiếm hoi còn tồn tại ở khu vực Nam Bộ cho đến ngày nay. Ngoài ra, di tích còn có giá trị trên nhiều mặt khi vừa là công trình kiến trúc quân sự đặc biệt, có vị trí chiến lược ở vùng Đông Nam Bộ của nhà Nguyễn; vừa phản ánh kỹ thuật xây dựng khoa học, đường nét kiến trúc Pháp trong tổng thể các hạng mục hiện tồn. Đồng thời, thể hiện sự am hiểu về phong thủy theo cách nhìn địa chính trị của người xưa. Với những giá trị lịch sử đó , Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch ban hành Quyết định số 3995/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 12-11-2013 công nhận Thành cổ Biên Hòa là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Đồng Nai 1469 lượt xem
Văn Miếu Trấn Biên hiện tọa lạc tại phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Lịch sử Văn Miếu Trấn Biên gắn liền với công cuộc mở cõi về phương Nam của các chúa Nguyễn. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý xứ Đồng Nai và sáp nhập vùng đất này vào nước Việt. 17 năm sau, tức năm 1715, chúa Nguyễn Phúc Chu cho xây Văn Miếu Trấn Biên, để thể hiện tư tưởng tôn vinh Nho giáo, phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo, kính trọng hiền tài và tiếp nối truyền thống văn hóa của người Việt ở phương Nam. Công trình đã có hai lần trùng tu lớn là năm 1794 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Ánh, và năm 1852 thời vua Tự Đức. Năm 1861, thực dân Pháp đánh chiếm Biên Hòa và đã phá bỏ công trình này. Mãi tới năm 1998 – kỷ niệm 300 năm thành lập và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai; Văn Miếu Trấn Biên mới được phục dựng trên nền đất cũ có diện tích khoảng 5 ha, trong đó khu thờ chính rộng 2 ha và hoàn thành xây dựng sau 4 năm. Văn Miếu Trấn Biên được phục dựng theo các tư liệu cổ như Đại Nam Nhất Thống Chí, Gia Định Thành Thông Chí. Các hạng mục công trình được xây đối xứng theo một trục thần đạo; lần lượt từ ngoài vào là Văn Miếu Môn, nhà bia, Khuê Văn Các, hồ Tịnh Quang, Đại Thành Môn, tượng Khổng Tử, sân hành lễ, Nhà thờ chính. Hai bên có các nhà tả - hữu là nhà Đề danh - nhà truyền thống, Thư khố - Văn vật khố. Công trình được xây với vật liệu mới nhưng vẫn tuân theo phong cách truyền thống. Ở trên Khuê Văn Các có thể ngắm toàn cảnh quần thể công trình. Ô cửa tròn tượng trưng cho sao Khuê (tương tự Khuê Văn Các trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội) đã được tái hiện ở Văn Miếu Trấn Biên. Phía sau Khuê Văn Các là một hồ rộng có tên Tịnh Quang. Các công trình ở đây đều được lợp ngói thanh lưu ly (ngói men màu xanh ngọc). Các công trình có bố cục hài hòa. Xen giữa các công trình là cây xanh lấy bóng mát và nhiều loại cây cảnh, cùng mặt nước tạo nên một không gian thoáng đãng. Tiếp theo, sau hồ Tịnh Quang là Đại Thành Môn. Đây là một hạng mục kiến trúc đặc trưng của các Văn Miếu, dẫn vào khu thờ chính. Đại Thành Môn có kiến trúc kiểu tam quan, mái ngói; hai phía có tường gạch hoa. Sau Đại Thành Môn là tượng Khổng Tử - ông tổ của Nho giáo, đặt dưới một kiến trúc có mái, tiếp theo là sân hành lễ và nhà thờ chính. Tượng Khổng Tử được tạc bằng đá nguyên khối, thực hiện theo mẫu từ Di sản thế giới Khúc Phụ (tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Nhà thờ chính là một kiến trúc 7 gian, hai chái với 3 tầng mái; có nhiều chi tiết đậm tính dân tộc, bên trong cột, kèo và các bao lam, hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng. Đây là nơi thờ tự những danh nhân văn hóa Việt Nam. Phía trước là sân rộng để hành lễ và tổ chức các sự kiện văn hóa. Gian chính giữa nhà thờ là nơi thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gian bên trái là nơi đặt bài vị và thờ tự những danh nhân văn hóa gắn liền với vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai và Nam Bộ xưa; bên phải là nơi đặt bài vị và thờ tự danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Phía trước hai bên nhà thờ chính là: Văn vật khố (nơi trưng bày 4 làng nghề truyền thống của Biên Hòa – Đồng Nai: nghề đồng, nghề mộc, nghề đá, nghề gốm); đăng đối với Văn vật khố là Thư khố - nơi trưng bày các thư tịch cổ, các tài liệu, sách báo... viết về lịch sử, văn hóa, con người vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai xưa và nay. Ngày 18/8/2016, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có quyết định về việc xếp hạng cấp Quốc gia với Di tích lịch sử Văn Miếu Trấn Biên. Văn Miếu Trấn Biên là một địa chỉ văn hóa đặc biệt ở Biên Hòa (Đồng Nai). Với không gian thoáng đãng và kiến trúc đặc sắc, đậm truyền thống văn hóa, hiếu học; nơi đây là điểm tổ chức nhiều sự kiện của địa phương như lễ Tết thầy cho học sinh, lễ hội hoa xuân, lễ hội báo xuân, lễ hội thơ, lễ báo công, lễ viếng tiền nhân… Đây là nơi bảo tồn, gìn giữ và tôn vinh các giá trị truyền thống, là nơi tưởng nhớ tổ tiên của người Việt ở phương Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Đồng Nai 1477 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 11273 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 10207 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 8164 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 8158 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 7702 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 7050 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 7012 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6925 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 6848 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 6670 lượt xem