Di tích lịch sử

Việt nam

Đình Bình Đông

Đình Bình Đông được xây dựng trên cù lao ngay nhánh rẽ của dòng Kinh Đôi, thuộc phường 7 quận 8 thành phố Hồ Chí Minh. Theo “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức, thôn Bình Đông thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình (1818). Đình có sắc phong Tự Đức ngũ niên (1853). Như vậy đình Bình Đông phải được xây dựng trước năm 1853, tức trước năm nhận được sắc. Sắc phong cho Thần "Thành hoàng bổn cảnh" của thôn Bình Đông, huyện Tân Long ghi ngày 29 tháng 11 âm lịch năm Nhâm Tý (08/01/1853). Theo các bô lão thì đình Bình Đông có từ xưa. Lúc đầu, kiến trúc của đình chỉ là ngôi nhà lá, dùng làm nhà làng cho dân cư quanh vùng tới hội họp và cúng bái. Đến năm 1922 được trùng tu bằng mái ngói, vách ván, cột kèo gỗ theo dạng đình Nam Bộ với võ ca và chánh điện nằm giữa, hai bên có Đông và Tây lang, bên cạnh lại có nhà Nghĩa Từ. Đến năm 1930, đình xuống cấp nên được sửa chữa lớn, mái ngói được thay bằng ngói đại ống 2 lớp, vách trét ô dước, nền gạch tàu. Năm 1968, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, đình bị bom đánh sập một phần võ ca, chánh điện và nghĩa từ. Mãi đến năm 1991, đình được xây dựng lại với kết cấu bằng nguyên vật liệu nặng (bêtông - cốt sắt) nhưng kiến trúc tổng thể vẫn giữ nguyên. Lần xây dựng này có thêm nhà Truyền Thống. Tuy toàn bộ cảnh quan không thay đổi nhưng kết cấu không còn nét xưa. Nổi bật còn lại vẫn là các hiện vật bên trong chánh điện như toàn bộ khám thờ thần, Tả Hữu ban, Hội đồng đều chạm thủng viền quanh với rồng vờn châu, từng lộc, tứ linh rất nghệ thuật. Trên bàn thờ Thần có khánh đựng mão thần, bộ bát bửu bằng đồng, lư hương bình hoa bằng gốm quí. Trước bàn thờ bố trí bộ lỗ bộ đầu bịt đồng rất quí. Cặp liễng treo hai bên bàn thờ Thần. Chung quanh cặp liễn có chạm các hoa văn rất nghệ thuật. Ngoài ra còn có 4 cặp liễn khác cùng kích cỡ, cùng mang tính nghệ thuật chạm trổ với nội dung ca ngợi công đức Thần được treo tuần tự theo cung cách thờ cúng. Trong chánh điện còn phải kể đến bao lam chạm trổ hình dáng: mai, lan, cúc, trúc, mẫu đơn, sóc, giác trên các loại gỗ quí. Các hoành phi đáng kể như Bình Đông Đình có ghi niên đại 1870 treo trên cửa chánh điện và bức "Diệu - Diệu anh linh" niên đại 1850. Trong nhà nghĩa từ bài trí hai bàn Tiền và Hậu hiền với đầy đủ hiện vật thờ cúng. Cạnh có bàn Tiên - Sư cũng được chưng dọn rất nghiêm túc. Riêng nhà Truyền Thống nằm cạnh là nơi trưng bày một số hình ảnh minh họa thời gian cụ Tôn Đức Thắng hoạt động tại Sài Gòn và tại đình Bình Đông. Nhìn tổng thể còn có miếu Ngũ Hành, bàn thờ Thần Nông, miếu Ông Tà bố trí theo tục lệ trước mặt võ ca (gần cổng Tam quan). Sân khấu thiết kế nằm trong võ ca nhằm phục vụ hát xướng ngày đại lễ. Đình Bình Đông không chỉ nổi tiếng là đình cổ, linh thiêng mà nơi đây còn mang ý nghĩa quan trọng của sự kiện lịch sử cách mạng. Năm 1920, Tôn Đức Thắng (nguyên Chủ tịch nước) từ hải ngoại trở về Sài Gòn và bí mật thành lập Công hội đỏ phát triển mạnh trong đội ngũ công nhân nhằm đoàn kết chống tư bản đế quốc. Lúc này ông Ka Hiêm là hội viên đình Bình Đông nên biến đình thành cơ sở của Công hội đỏ. Năm 1925, là lãnh đạo tổ Công hội đỏ thuộc Nhà đèn Chợ Quán, ông Ka Hiêm tổ chức nhiều cuộc họp tại đình và các tài liệu đều được cất giấu dưới khám thờ. Theo ông Dương Quang Đông (Nguyên thường vụ Xứ ủy Nam kỳ) - Chủ tịch câu lạc bộ hưu trí TP. Hồ Chí Minh và ông Ka Hiêm thì Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã đến dự nhiều lần những cuộc họp quan trọng tại đình Bình Đông trong khoảng thời gian từ 1925 - 1928. Những lần đó Bác Tôn đã thuyết giảng về chủ nghĩa Mác, lòng yêu nước cho các công nhân nòng cốt của Hội. Thời gian hoạt động của Công hội đỏ diễn ra từ 1925 - 1928, không hề bị lộ bí mật. Chính tại chánh điện, các mật thư của Nguyễn Ái Quốc được chuyển từ nước ngoài về cũng như các sách báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác đều được cất giấu cẩn thận và an toàn tại đình Bình Đông. Thời kỳ chống Mỹ, đình Bình Đông là nơi liên lạc, chuyển vũ khí vào nội thành và cũng là nơi bộ đội miền Nam đặt súng bắn vào Tòa hành chánh quận 7 của chế độ cũ năm 1968. Đình Bình Đông là một di tích văn hóa và lịch sử, được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận di tích theo quyết định số 2890 - Văn Hóa /Quyết Định ký ngày 27/09/1997. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2927 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Minh Hương Gia Thạnh

Đình Minh Hương Gia Thạnh hội quán tọa lạc tại 380 đường Trần Hưng Đạo, phường 11, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đình là nhà việc của xã Minh Hương, một xã được thành lập vào năm 1698, tập hợp con cháu người Hoa ở dinh Phiên Trấn. Năm 1808, vua Gia Long ban cho tên “Gia Thạnh đường” nên đình còn có tên Minh Hương Gia Thạnh. Năm 1867, chính quyền thuộc địa thay đổi cơ cấu hành chính, đình không còn là nhà việc của xã và trở thành hội quán của hội Minh Hương Gia Thạnh. Đình được xây dựng năm 1797, trùng tu vào các năm 1839, 1901 và 1962. Lần trùng tu cuối sử dụng một số vật liệu hiện đại và xây thêm tầng lầu trên chính diện. Kiến trúc đình theo kiểu nhà năm gian, vì kèo gỗ, mái lợp ngói ống, tường gạch. Nội thất đình bao gồm võ ca, chính điện và hậu điện. Bên phải võ ca có miếu Ngũ Hành. Đứng trước cổng có thể nhìn rõ trên mái đình các trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích tuồng tích của Trung Quốc … do lò gốm Đồng Hòa sản xuất năm Tân Sửu 1901. Bộ khung gỗ kết cấu kiểu kẻ chuyền và các cột gỗ kê trên chân đế bằng đá tạo cho đình thêm nét cổ kính. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ XIX. Có tất cả 38 hoành phi và 22 câu đối, tập chạm bốn chữ “Thiện tục khả phong” (Tục tốt đáng khen) do vua Tự Đức ban cho năm 1863 và câu đối của Trịnh Hoài Đức làm năm Minh Mạng thứ 2 (1821). Chính điện đình xây trên nền cao, phía trước trang trí ba bao lam chạm lộng các đề tài tùng – hạc, mai – điểu, liên – áp, giỏ cua, giỏ trái cây … Cuối chính điện là ba khám thờ lớn bằng gỗ đặt trên bệ gạch, được chạm viền chung quanh lưỡng long tranh châu, lân, phụng, dây hoa …Khám thờ thần đặt ở giữa với bài vị: Ngũ thổ tôn thần – Ngũ cốc tôn thần, Đông trù tư mệnh -Bốn cảnh thành hoàng. Trước khám thờ có một lư trầm bằng đá và hai tượng Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức cũng bằng đá đặt hai bên. Bên trái là khám thờ Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh và Đô đốc tướng quân Trần Thắng Tài, hai vị quan tướng có công lớn, được triều Nguyễn phong là Thượng đẳng thần. Khám bên phải thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh, hai người Minh Hương làm quan đến chức Thượng thư, (cùng với Lê Quang Định hợp thành “Gia Định tam gia”, một nhóm nổi tiếng về văn học và sử học). Góc trái chính điện có một chuông đồng. Quai chuông là một con rồng hai đầu, bốn chân. Thân chuông đúc nổi 2 hàng chữ “Gia Định thành Minh Hương xã công tạo“, “Long tập Quí Mùi thu nguyệt” (chuông do xã Minh Hương thành Gia định làm năm Quí Mùi – 1823). Hậu điện cách chính điện một sân thiên tỉnh nhỏ. Ở đây cũng có ba khám thờ trang trí giống nhau. Các vị tiền hiền khai sáng ra làng được thờ ở khám thờ chính giữa. Bên trái là khám thờ các hương chức và phu nhân có công, vợ chồng ông Trương Công Sĩ, người đã tặng đất cho xã. Những viên chức nhỏ có công và vợ được thờ ở khám bên phải. Miếu Ngũ Hành thờ Ngũ Hành Nương Nương và Chúa Sinh Nương Nương (người chuyên lo giúp việc sinh đẻ). Trong khám thờ có tượng Bà mẹ Sinh. Trước tượng Bà là tượng hai hầu và mười hai bà mụ bồng đứa trẻ trên tay. Phúc đức chính thần (Thổ Địa) và Bạch Mã Thái giám cũng được thờ ở miếu. Góc trái miếu có một chuông đồng đúc năm Tự Đức thứ 2 (1849). Ngoài những hiện vật đã kể, trong đình còn nhiều hiện vật quí khác như: bia lập năm 1839 ghi tên những người Minh Hương làm quan có tiếng dưới triều Nguyễn; một số hoành phi câu đối, đặc biệt là đôi câu đối làm cong theo thân cột, chạm nổi long, lân, qui, phụng … với đầu rồng được chạm cao hơn bề mặt câu đối gần một tấc, hai đỉnh gang làm năm 1842; bộ ghế chạm rồng, phượng; bộ thập bát binh khí …Đình Minh Hương là một trong những ngôi đình xưa ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ý nghĩa là một di tích của xã Minh Hương, nơi thờ tự hương hỏa của người Minh Hương, đình còn có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm khắc gỗ mang phong cách Việt Nam thế kỷ 19. Đình Minh Hương đã được Bộ Văn hóa ra quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ngày 07/01/1993 công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 3065 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Nghĩa Nhuận(Miếu Ông Quan Đế - Hội Quán Nghĩa Nhuận)

Đình Nghĩa Nhuận tọa lạc tại 27 đường Phan Văn Khỏe, phường 13, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đình Nghĩa Nhuận nguyên là đình thôn Tân Nhuận thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, một thôn đã được Trịnh Hoài Đức nhắc đến trong Gia Định thành thông chí. Từ năm 1836 thôn Tân Nhuận thuộc tổng Tân Phong Trung, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Năm 1853, Thần Thành Hoàng bổn cảnh của làng được vua Tự Đức ban tặng sắc phong. Sau, đình trở thành hội quán của Hội Nghĩa Nhuận, thờ Quan Công là vị thần chính nên còn có tên là miếu Quan Đế. Theo Vương Hồng Sến, hội quán Nghĩa Nhuận được thành lập năm 1872 và trùng tu vào các năm 1879, 1894, 1906 và 1911. Đình gồm hai khu nhà riêng biệt trên khuôn viên khoảng hai ngàn mét vuông. Phần trước gồm các điện thờ, thiên tỉnh và hai dãy nhà phụ hai bên. Phía sau là nghĩa từ và các khu nhà phụ. Năm 1993, đình được xây thêm tam quan và hai dãy nhà dọc hai bên sân để thờ Thái Tuế thiên quân, Văn Xương đế quân, Thần Tài đại hắc thiên ở phía bên trái và thờ Di Lặc tôn Phật, Quan Âm Bồ Tát, Địa Tạng vương Bồ Tát ở bên phải. Hai bên cửa đình, ngoài hai sư tử đá chầu hai bên, còn có tượng Di Đà Hộ Pháp và Vương Đại thiên quân. Tiền điện đình có bàn thờ Tả Thần môn và ngựa Xích Thố bài trí đối xứng với bàn thờ Hữu Thần môn và Chiến sĩ trận vong. Từ tiền điện qua sân thiên tỉnh thì vào chính điện. Giữa chính điện có khám thờ Quan Đế với tượng quan Đế bằng gỗ cao khoảng 80cm, ngồi trên ngai. Hầu trước khám thờ là tượng Quan Bình và Châu Xương bằng gỗ cao 180cm đặt trong tủ kính đối mặt nhau. Bên trái khám thờ Quan Đế là gian thờ Thần Thành Hoàng bổn cảnh. Sắc phong của vua Tự Đức đặt trong một tủ kính lớn. Sắc ban cho Thần làng Thanh Bình, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định cũng được đặt chung ở đây. Khám thờ Bà Thiên Hậu ở góc bên phải. Trong khám thờ có tượng Bà Thiên Hậu bằng gỗ cao khoảng 70cm, ngồi trên ghế chạm. Nghĩa từ thờ các bậc tiền hiền, hậu hiền có công với làng. Nét nổi bật của đình là nghệ thuật chạm gỗ mang phong cách Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ XX. Hầu như có thể nhìn thấy các tác phẩm chạm gỗ ở khắp nơi trong đình: trên tất cả các vì kèo, bao lam cửa, bao lam khám thờ, hương án, câu đối ... với các mô típ mới lạ như trái đào lộn hột, măng cụt, chim đậu trên chùm mận ... Bên cạnh các đề tài quen thuộc. Được nhắc đến nhiều là tượng ngựa Xích Thố, một trong những tượng ngựa Xích Thố đẹp nhất ở thành phố Hồ Chí Minh; 3 bức phù điêu trước ba hương án ở chính điện chạm nổi "Lục quốc phong tướng", "Trưng Nữ Vương khởi nghĩa" và "Lê Thái Tổ khởi nghĩa" được đánh giá là đỉnh cao về nghệ thuật chạm nổi và đổi mới về đề tài; bức bình phong sơn son thếp vàng, chạm nổi hai mặt các đề tài Bát Tiên quá hải, cầm kỳ thi họa, mai điểu, nho sóc ... viền chung quanh là lưỡng long tranh châu, phụng hoàng, chân đỡ bình phong là 4 kỳ lân ở góc và 2 con rùa ở bên dưới tạo cho bình phong vẻ sinh động. Nghệ thuật chạm khắc đá cũng được thể hiện đặc sắc qua hai cột đá chạm rồng trước cửa đình, cặp sư tử chầu hai bên cửa, các cột đá chạm nổi câu đối, chân kê cột hình bát giác chạm mai, trúc, bầu rượu, túi thơ... Ngoài ra còn có một sô hiện vật giá trị như lư trầm bằng đồng đúc ba con rồng nâng quả cầu, bộ binh khí, cặp hạc đứng trên lưng rùa ...Đình Nghĩa Nhuận không chỉ là di tích của làng Tân Nhuận xưa mà còn thể hiện sự giao lưu văn hóa Hoa - Việt ở vùng đất đông đảo đồng bào Hoa - Việt chung sống. Tuy có vài thay đổi qua những lần trùng tu, đình vẫn giữ được vẽ cổ kính với những tác phẩm chạm gỗ, chạm đá giá trị. Đình đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ký ngày 07/01/1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2975 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Hội quán Ôn Lăng (chùa Quan Âm)

HỘI QUÁN ÔN LĂNG tọa lạc tại số 12 đường Lão Tử, Phường 11, Quận 5 Hội quán Ôn Lăng, còn được gọi là chùa Quan Âm. Hội quán Ôn Lăng, còn được gọi là chùa Quan Âm, là trụ sở của hội đồng hương những di dân người Hoa nguyên quán ở phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến (Trung Hoa). Hội quán được xây dựng vào khoảng nửa cuối thế kỷ thứ 18 và đã được trùng tu vào các năm 1828, 1867, 1897, 1993, 1995. Năm 1809, Ban Quản trị hội quán đã xây thêm một hồ phóng sinh trước hội quán, để “trấn mạch tụ khí” cho miếu thờ được linh thiêng. Ngoài Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần được thờ ở gian giũa chính điện, hội quán Ôn Lăng còn thờ các vị Ngọc Hoàng Thượng Đế, Bà Chúa Sinh, Phúc Đức Chính Thần (Thần Thổ Địa), Quan Đế, Bao Công, Văn Xương Đế Quân (vị Thần ban phước lộc), Mã Tướng Quân, Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Thiên Phụ Địa Mẫu, Tử Vi, Hoa Quang Đại Đế (Thần Tài), Tề Thiên Đại Thánh. Đặc biệt, án thờ Bồ Tát Quan Thế Âm được đặt trong sân phía sau chính điện với tượng thờ Quan Âm cao gần hai mét đứng trên tòa sen, hai bên có Kim Đồng, Ngọc Nữ theo hầu. Mặt bằng tổng thể của hội quán gồm một khoảng sân nhỏ phía trước, một khối nhà hình chữ nhật ở giữa (gồm tiền điện, sân thiên tỉnh, trung điện, chính điện) và ba khối nhà vuông góc nhau tạo thành hình chữ U bao bọc khối nhà này, khoảng giữa các khối nhà là lối đi khá rộng rãi. Hội quán được xây dựng và trang trí theo phong cách đặc trưng của đền miếu Phước Kiến với kiểu kiến trúc “tứ hợp diện”, mái lợp ngói ống, đầu các xà gồ dưới mái hiên được chạm trổ hình bông sen…Giá trị nghệ thuật của hội quán thể hiện qua các phù điêu hình hai con rồng tranh viên ngọc, chim phượng hoàng và các mô hình thành quách, người, thú… bằng gốm được trang trí trên mái ngói; cặp tượng kỳ lân bằng đá chầu hai bên cửa gồm tượng lân giáo tử (lân mẹ đang dạy lân con) và tượng lân hàm châu (lân ngậm ngọc trong miệng); những mảng phù điêu bằng gỗ chạm trổ tinh xảo trang trí ở mặt tiền và trên các vì kèo; các bao lam cửa, bao lam khám thờ chạm trổ tinh tế hình mai – điểu (hoa mai – chim sẻ), trúc – tước (cây trúc – chim tước), ngô đồng – phượng (cây ngô đồng và chim phượng), 16 cặp liễn, 23 hoành phi (có niên đại từ năm 1826 đến năm 1908), chuông đồng đúc năm Ất Dậu (1885) và tượng các vị thần thánh được tạo tác chân phương, gần gũi với đời thường. Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần được thờ chính nhưng về sau việc thờ Quan Âm được coi trọng hơn nên hàng năm lễ hội Quan Âm được tổ chức rất long trọng trong ba ngày 17 tháng 6 âm lịch. Ngoài việc tế lễ, Ban Quản trị còn phát lộc cho người đến tham dự. Hội quán Ôn Lăng đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 39/2002/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 30 tháng 12 năm 2002. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2822 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Miếu Bà Thiên Hậu - Hội Quán Tuệ Thành

Miếu Thiên Hậu tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, phường 11, quận 5, là ngôi miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của cộng đồng người Hoa – Quảng Đông, gốc ở huyện Tuệ Thành (Trung Quốc). Miếu được xây dựng vào năm 1760. Từ đó đến nay, miếu đã được trùng tu nhiều lần. Miếu có cấu trúc mặt bằng dạng chữ Quốc, chia làm 3 dãy: tiền điện, trung điện và hậu điện. Hội quán Tuệ Thành và truờng học nằm hai bên miếu. Nóc miếu được trang trí hoa văn hoa lá, hình nhân bằng gốm sứ do hai lò Bửu Nguyên và Đồng Hòa sản xuất vào năm Mậu Thân (1908), có cảnh "đả võ đài", "bái tổ vinh quy", mô tuýp "lưỡng long tranh châu", có hình ảnh tiên đồng, tiên nữ với hàng chữ "hòa hợp nhị tiên"... Hai con lân đá, chạm từ khối đá nguyên được đặt trong sân miếu. Tiền điện đặt hai trang thờ hai bên cửa vào. Bên trái thờ Thần Cửa (Môn Quan Vương Tả), bên phải thờ Phúc Đức Chánh Thần. Tại đây cũng có bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu và bức tranh lớn vẽ cảnh Bà hiển linh trên sóng nước. Bia công đức ghi lại sự đóng góp trùng tu miếu vào các đời: Đạo Quang thứ 8 (1828) và Đạo Quang thứ 10 (1830) – Tự Đức thập nhất niên (1857); Hàm Phong cửu niên (1859); Quang Tự - Mậu Tuất (1898)...Trung điện đặt bộ lư phát lam niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886) là bộ lư lớn nhất so với những bộ lư ở những miếu khác trong Thành phố. Tại đây cũng có kiệu lớn sơn son thếp vàng bằng gỗ tốt, dành rước Bà trong ngày vía. Bức hoành phi "Hàm Hoằng Quang Đại" treo tại đây, cho biết năm trùng tu xưa nhất của miếu (1800). Hậu điện là gian chính đặt thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Trên trang thờ Bà có 3 tượng lớn: tượng cao nhất dùng vào dịp vía bà, cung nghinh ra sân cho bà ngự lãm lễ hội; tượng giữa đặt trên trang thờ và tượng dưới cùng dùng đặt vào kiệu đưa đi diễu hành quanh các khu phố vào ngày lễ hội. Tại gian chính điện còn đặt 2 đại hồng chung bằng gang: một có niên đại 1795 đời vua Càn Long thứ 60 và một được đúc năm Canh Tuất 1850. Trong "Thiên Hậu cung" có đặt một thuyền gỗ ở góc, treo cờ ghi 4 chữ "phổ độ chúng sanh", dùng dâng cúng Bà vào ngày vía hàng năm. Hai bên trang thờ Bà còn đặt trang thờ Kim Huê nương nương bên phải và Long Mẫu nương nương bên trái... Gian phụ cũng đặt thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài. Tủ kính lớn gian chính điện đặt tượng Bát Tiên và tướng lịnh của Ariès ký tên: cấm các binh sĩ Pháp, Y-Pha-Nho phá phách miếu – được lưu giữ từ năm 1860. Ngoài các hiện vật quý, trong miếu còn có các pháp khí như: đỉnh trầm, lư trầm, lư hương bằng đá sa thạch... do người Hoa thành kính tín ngưỡng Bà đã dâng cúng. Là ngôi miếu quan trọng nhất ở Thành phố đặt thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu cùng một số hiện vật quý trong miếu, ngày 07/01/1993 miếu được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định của Bộ Văn hóa thông tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 3020 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Nhị Phủ hội quán (Chùa Ông Bổn)

Miếu Nhị Phủ, Nhị Phủ hội quán hay còn được gọi là chùa ông Bổn, tọa lạc tại 264 đường Hải Thượng Lãn Ông, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Có tên là Nhị Phủ vì miếu được thành lập do sự đóng góp của người Hoa gốc ở hai phủ Tuyền Châu và Chương Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Về sau nhóm Tuyền Châu lập hội quán Ôn Lăng, nhóm Chương Châu lập hội quán Chương Châu (nay là Hà Chương). Không rõ miếu được xây dựng năm nào. Hiện nay trong miếu còn lưu giữ một chuông cổ. Trên chuông chỉ đúc hàng chữ "Nhị phủ Đại Bá Công Ất Dậu trong thu cát đán..." nên khó xác định niên đại. Trong "Cổ Gia Định phong cảnh vịnh", bài phú mô tả phong cảnh Gia Định từ năm 1770 đến năm 1815. Trên một câu đối treo ở chính điện hội quán Hà Chương (được thành lập sau miếu Nhị Phủ) có ghi năm trùng tu là Gia Khánh Kỷ Tỵ tức năm 1809. Như vậy hội quán này được xây dựng muộn nhất là vào cuối thế kỷ XVIII. Từ những dữ liệu trên, có thể nói "Ất Dậu"chạm trên chuông là năm 1765, cũng là năm thành lập miếu. Từ khi thành lập đến nay, miếu đã qua ba lần trùng tu lớn vào những năm 1875, 1901 và 1990. Dù vậy, miếu vẫn giữ được nét cổ kính qua phong cách kiến trúc và trang trí truyền thống của người Hoa - Phúc Kiến. Khuôn viên miếu rộng khoảng hai ngàn năm trăm mét vuông. Phần sân chiếm gần phân nửa diện tích. Không gian còn lại bao gồm các điện thờ, trụ sở hội quán và sân thiên tỉnh. Miếu có dạng nhà khung gỗ, mái ngói, tường gạch. Vách mặt tiền ghép bằng các phiến đá. Bộ khung gỗ được sơn màu đỏ, trang trí đẹp mắt bằng các bông sen chạm ngược ở đầu các thanh chống xà gồ dưới mái hiên, các tượng kỳ lân bằng gỗ đầu xà cột hay những diềm gỗ chạm lộng trên thanh ngang...Mái miếu lợp ngói ống, diềm mái là hàng ngói thanh lưu ly. Hình thức vì kèo "chồng rường - giá chiêng" khiến mái miếu hơi cong cộng với thiết kế tạo hình hai tầng mái và các đầu đỉnh mái, đầu đao uốn cong tạo cho ngôi miếu có dáng một chiếc thuyền rồng... Trên mái trang trí tượng cá hóa long, mai, lan, cúc, trúc, rồng, phượng... bằng gốm sứ nhiều màu sắc. Ơở gờ đỉnh mái có tượng lưỡng long tranh châu. Thân rồng không duỗi dài như thường thấy mà gần như dựng thẳng, đuôi xòe cao. Bên trong miếu bài trí đơn giản nhưng không kém phần trang nghiêm. Trên mỗi cột gỗ cao sơn màu đỏ, được kê bằng các chân đá chạm trổ mỹ thuật, có treo một hoặc hai câu đối. Nhiều câu đối cao hơn 3 mét, được làm cong theo chiều cong của cột. Hoành phi cũng được trang trí nhiều nơi. Có tất cả 14 câu đối và 30 hoành phi, phần lớn được làm từ năm 1864 đến năm 1901. Các hoành phi, câu đối được chạm viền chung quanh, bên trong chạm nổi các chữ Hán trên nền hoa văn rồng mây, sóng nước... ngoài ý nghĩa ca ngợi thần thánh còn có giá trị nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật chạm gỗ. Bàn thờ ông Bổn tức Phúc Đức chính thần, vị thần bảo hộ đất đai theo tín ngưỡng của người Hoa đặt giữa chính điện. Hai bên thờ Quảng Trạch tôn vương và Thái Tuế gia gia. Dọc hai bên thiên tỉnh trước chính điện là hai gian thờ Quan Thánh đế quân và Chúa Sinh nương nương. Hậu điện thờ Ngọc Hoàng đại đế, Thích ca Phật tổ và Quan Âm Bồ tát. Các vị thần, thánh được thể hiện bằng tượng gỗ hay thạch cao đặt trang trọng trong các khám thờ. Nổi bật nhất là khám thờ ông Bổn được làm năm 1894. Khám thờ bằng gỗ, sơn nhũ vàng, chạm trổ các đề tài lưỡng long tranh châu, ngô đồng - phượng, lân hàm châu... xen kẻ hoa văn đồng tiền, chữ thọ, các con vật miền sông nước như tôm, cua, cá... là một tác phẩm của nghệ thuật chạm khắc gỗ, một hiện vật quý của miếu. Ngoài ra còn có những hiện vật giá trị khác như chuông cổ bằng hợp kim đúc năm Ất Dậu (1765), chuông bằng gang làm năm 1875, tượng kỳ lân bằng đá, các bao lam, bình phông, hoành phi, câu đối... có niên đại cuối thế kỷ 19. Miếu Nhị Phủ được xem là một trong những đền miếu xưa nhất của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh. Là một công trình kiến trúc đặc sắc với nghệ thuật chạm đá, chạm gỗ tinh xảo, miếu Nhị Phủ không chỉ thể hiện sự giao lưu văn hóa Hoa - Việt mà còn đánh dấu sự định cư và phát triển của người Hoa Phúc Kiến, gắn liền với sự phát triển của Sài Gòn xưa. Ngày 31/8/1998 miếu Nhị Phủ đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 1811/1998/Quyết Định-Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2575 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Nhà thờ tổ thợ bạc (Lệ Châu hội quán)

Lệ Châu hội quán, nhà thờ tổ nghề thợ bạc tại Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc trên một khu đất rộng 805m2, tại số 586 đường Trần Hưng Đạo B, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một ngôi nhà đã tồn tại hơn 100 năm, là nhà thờ tổ nghề thợ bạc được xây dựng sớm nhất tại Sài Gòn và cả vùng Nam Bộ. Tác giả Vương Hồng Sển đã viết: "Đường Nguyễn Trãi đi một đoạn khỏi đường Tổng Đốc Phương gặp chùa Lệ Châu. Đây là "chùa tổ" thờ tổ sư của nhóm thợ và chủ lò kim hoàn. Sau những người Hoa kiều đồng nghề cũng nhập với đồng nghiệp Việt Nam nên mỗi năm cúng tổ long trọng và oai nghi lắm". Những năm cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một khu công nghiệp khá quan trọng. Thợ thủ công Sài Gòn có tay nghề cao và được tổ chức thành các "ty thợ", "phường thợ". Riêng nghề thợ bạc (nghề kim hoàn ngày nay) rất phát triển. Làm cho nhà nước thì có các ty: ty thợ bạc Nội, ty thợ bạc Tả Trung, ty thợ bạc Hữu Trung... Còn tư nhân thì tập trung lại thành các lò thợ bạc. Xung quanh vùng Chợ Lớn đã có tới hơn 30 lò thợ bạc hành nghề. Làm ăn phát đạt - Nhớ ơn tổ nghiệp. Một số chủ lò thợ bạc có uy tín ở vùng Chợ Lớn đã đứng ra vận động quyên góp từ các lò thợ bạc trong vùng và khắp các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ, kẻ ít, người nhiều, họ đã chung lưng góp sức mua được một vuông đất ở đường Thủy Binh (Rue des Marins tức đường Trần Hưng Đạo B ngày nay). Nhà thờ tổ được xây cất bắt đầu từ năm 1892 đến năm 1896 thì hoàn thành. Nhà thờ tổ đã trải qua nhiều đợt trùng tu lớn vào các năm 1920, 1934, 1946. Lần trùng tu lớn cuối cùng là tháng 8/1968 đã cất lại toàn bộ nghĩa từ và sửa chữa lớn ở chánh điện do bị bắn phá hư hại. Chánh điện được xây theo kết cấu ba gian dọc, có hai hàng cột chạy dài từ ngoài vào trong, tường gạch tô, mái lợp ngói âm dương. Bài trí ở chánh điện đơn giản, không có một pho tượng nào. Mặt trường chính của chánh điện đặt ba khám thờ được trang trí bằng những bao lam chạm trổ rồng, phụng, hoa, điểu... sắc nét công phu. Chính giữa là khám thờ lớn ở trong đặt các đồ thờ tự và bài vị với hai chữ "Tổ Sư" được viết theo lối đại tự đẹp, chân phương và được sơn son thếp vàng. Hai bên là hai khám thờ nhỏ, khám thờ bên phải đề hai chữ "Tiền Hiền", khám thờ bên trái đề hai chữ "Hậu Hiền". Từ ngoài vào trong dọc theo các hàng cột có 6 cặp câu đối và 9 bức hoành phi với nội dung tập trung vào chủ đề nhớ ơn tổ nghiệp, ca ngợi sự phát triển thịnh đạt của nghề thợ bạc. Tất cả các hoành phi, câu đối, bao lam... đều được sơn son thếp vàng với chất lượng giấy qui có độ tuổi vàng cao nên đều láng bóng và rõ nét, dù tất cả đều có niên đại khá lâu. Trong nhà thờ tổ còn tồn giữ được một số hiện vật khá độc đáo: Một cái trống lớn có chiều cao 1,10m, đường kính 0,60m, tang trống không phải bằng các mảnh gỗ ghép mà lại là một cây gỗ tròn lớn khoét rỗng. Đi đôi với trống là một quả chuông cao 1m, đường kính 0,50m, trên chuông để niên đại năm Ất Mùi (1895) do thợ Hà Nội chế tác và ghi rõ họ tên 14 người trong nghề thợ bạc phụng cúng để tỏ lòng thành kính tổ sư. Đặc biệt là 4 tấm bia đá đặt đối nhau ở hai bức vách chánh điện. Có tấm có niên đại 1895, có tấm để năm 1916, 1920. Trên các tấm bia khắc tên họ, tên hiệu, địa phương, số tiền đóng góp để xây dựng nhà thờ tổ. Qua đó ta thấy có mặt đệ tử nghề thợ bạc khắp Nam kỳ lục tỉnh: Tây Cống, Đề Ngạn, Trà Vinh, Bến Tre, Cần Thơ... người Hoa, người Việt. Bên cạnh những tên hiệu chữ Hán Nôm như: Thịnh Đức, Kim Phước, Đức Phát... còn có những tên hiệu rất Nam Bộ như: Năm Sương hiệu, Bảy Trừ hiệu... Theo truyền thuyết nhà thờ tổ sư nghề thợ bạc này, được dựng lên để thờ một vị tổ sư họ Trần (không rõ tên), quê từ miền ngoài vào, nguyên là thợ bạc trong cung nội, học nghề thợ bạc từ hai vị cao tổ của nghề kim hoàn Việt Nam là hai cha con: "Đệ nhất tổ sư"Cao Đình Độ (1743 - 1810, hiệu "Đệ nhất tổ sư" do vua Gia Long phong năm 1810) và "Đệ nhị tổ sư" Cao Đình Hương (1773 - 1821, hiệu "Đệ nhị tổ sư" do vua Minh Mạng phong năm 1821). Lễ giỗ tổ kim hoàn tại Lệ Châu hội quán được tổ chức vào ngày 7 tháng Hai (âm lịch), là ngày giỗ của vị "Đệ nhị tổ sư" Cao Đình Hương. Ngày cúng tổ hàng năm ở đây qui tụ rất đông các đệ tử của nghề thợ bạc từ khắp các vùng Nam Kỳ lục tỉnh. Lễ giỗ được tổ chức trong ba ngày từ ngày 6 đến ngày 8 tháng Hai (âm lịch). Hơn một thế kỷ trôi qua, ngôi nhà thờ tổ vẫn được Ban trị sự và các đệ tử của nghề thợ bạc bảo quản nguyên vẹn. Ngôi nhà không chỉ là nơi thờ cúng bình thường nói lên truyền thống "tôn sư trọng đạo", "uống nước nhớ nguồn" của những người hành nghề kim hoàn mà còn mang đậm những nét văn hóa đặc sắc về lịch sử đấu tranh cũng như quá trình phát triển của vùng Sài Gòn và Nam Bộ xưa. Vì lý do đó "Lệ Châu hội quán" đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 1811/1998/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 31/8/1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2407 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Bà Hải Nam hay Hội quán Quỳnh Phủ

Chùa Bà Hải Nam hay Hội quán Quỳnh Phủ là tên gọi hội quán của người Hoa Hải Nam sinh sống ở khu vực Chợ Lớn, Quận 5. Theo nội dung ghi trên bia đá thì hội quán đã được xây dựng vào năm 1824 tại vùng đất “sơn thanh thủy tú” nơi “thuyền xe tấp nập, hàng hóa lưu thông”. Qua sáu lần trùng tu, hội quán mới có được qui mô như ngày nay. Hội quán được xây dựng theo kiểu nhà “tứ hợp diện”với bốn dãy nhà vuông góc nhau và hướng vào sân thiên tỉnh ở chính giữa. Dãy nhà tiền điện được thiết kế thành hai mặt, một mặt hướng ra sân hội quán và một mặt hướng vào thiên tỉnh. Tiếp sau tiền điện là trung điện và chính điện. Trung điện là nơi làm việc và tiếp khách của Ban Quản trị. Các bàn thờ tập trung ở chính điện. Ngoài án thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu còn có các án thờ Văn Xương Đế Quân, Phúc Đức Chính Thần, Tài Bạch Tinh Quân, Hoa Quang, Ngũ Thổ Long Thần và Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần. Đặc biệt, có các vị thần chỉ riêng thờ ở hội quán Quỳnh Phủ là Thủy Vĩ Nương Nương và Ý Mỹ Nương Nương (hai vị nữ thần bảo hộ người đi biển) và 108 thương nhân Hải Nam, sau khi gặp nạn trên biển đã rất hiển linh, được vua Tự Đức ban sắc phong vào năm 1851 và vua Duy Tân ban sắc phong vào năm 1922. Nét nổi bật ở hội quán Quỳnh Phủ là nghệ thuật đúc đồng, thể hiện qua bộ lư hương được đúc vào năm Quang Tự thứ 19 (1893) và một bộ ngũ sự đúc vào năm Quang Tự thứ 33 (1907). Bộ lư hương gồm một lư hương cao 0,7m, đường kính miệng lư rộng 0,9m và hai tượng hươu cao 1m, miệng ngậm giá nến, hoa mai trên thân hươu và đầu lân trên tay quai được tạo dáng sinh động, sắc sảo. Bộ ngũ sự gồm một đỉnh trầm chân vạc đúc nổi hình “Bát tiên thượng kỳ thú”(tám vị tiên cưỡi trên tám con thú quí), lưỡng long tranh châu (hai con rồng tranh viên ngọc) và hai độc bình, hai chân nến cũng được đúc nổi lưỡng long tranh châu trên nền mây, lửa. Kỹ thuật chạm khắc gỗ ở hội quán cũng đạt giá trị nghệ thuật cao, thể hiện trên các bao lam khám thờ, bao lam cửa, hương án, liễn đối, hoành phi… Bằng kỹ thuật chạm bong, chạm nổi, chạm lộng hoặc kết hợp chạm lộng với chạm nổi, các nghệ nhân đã tạo ra những phù điêu án thờ với hàng chục nhân vật hay những bao lam chạm cả hai mặt công phu, những khám thờ nhiều lớp bao lam…với những mô-tip Thập bát La hán, long lân qui phụng, trích đoạn truyện Phong Thần hay những con vật quen thuộc với đời thường như bầy cá quẫy đuôi, con cua đang kẹp râu con tôm trong bãi cỏ, dây bầu trĩu quả… Những tấm liễn gỗ cao hơn 3 mét, rộng hơn 4 tấc được uốn cong theo thân cột cũng là những tác phẩm nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật chạm chìm, chạm nổi. Đáng chú ý là một bộ gồm sáu tấm tranh sơn ta được làm vào năm 1963, tóm tắt truyện thơ Lục Vân Tiên của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Cạnh mỗi tranh vẽ là sáu câu thơ thể hiện nội dung bức tranh. Bộ tranh này cùng với bức bình phong bằng đá vân đen do vua Tự Đức ban tặng và sắc phong của vua Duy Tân thể hiện sự giao lưu, hội nhập giữa cộng đồng Hải Nam và cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Quỳnh Phủ Hội Quán – Miếu Bà Hải Nam thành phố Hồ Chí Minh đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng chứng nhận “Di tích lịch sử – văn hoá” cấp quốc gia bằng Quyết định số 52/2001/Quyết Định/Bộ Văn Hóa Thông Tin cấp ngày 28/12/2001. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2270 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

CƠ SỞ BAN TUYÊN HUẤN XỨ ỦY NAM BỘ

Sau khi Hiệp định Genève 1954 được ký kết, Xứ ủy Nam Bộ đã sử dụng căn nhà số 51/10/14 đường Cao Thắng để làm cơ sở của Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ và một số đơn vị Khu Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Căn nhà có nền gạch, mái lợp ngói- nhà chính rộng 3,6m, dài 15m và nhà bếp rộng 3,6m, dài 6m. Tại đây, Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ đặt máy thu thanh và giao cho đồng chí Đỗ Văn Ba (tức Đỗ Văn Hạng), cán bộ Xứ ủy phụ trách cơ sở, thu tin từ Đài Phát thanh Hà Nội và biên tập thành tài liệu, in ấn, phát hành cho các cơ sở của Xứ ủy nắm tin tức và thực hiện chỉ thị của Trung ương đối với Nam Bộ. Ngoài ra, Ban Tuyên huấn Xứ ủy đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng có các đồng chí cán bộ lãnh đạo cao cấp của thành phố tham dự như đồng chí Trần Bạch Đằng, Phạm Dân, Tân Đức, Đỗ Văn Ba… cho đến khi Ban Tuyên huấn Xứ ủy chuyển về Chiến khu D năm 1957. Từ năm 1957 đến năm 1961, cơ sở Ban Cán sự thị xã Mỹ Tho và Ban Chấp hành phụ nữ giải phóng thị xã Mỹ Tho tiếp tục sử dụng ngôi nhà này để làm điểm tạm trú đồng thời là nơi móc nối liên lạc, hội họp chỉ đạo phong trào đấu tranh của tỉnh Mỹ Tho. Năm 1964, bà Trần Thị Ngọc Sương đã vận động được gia đình ông Tư Bôn ở nhà sát bên để mở rộng cơ sở cho Ban Trí vận Khu ủy sử dụng: nơi đây Anh hùng Lực lượng vũ trang Lê Thị Riêng (Cô Chín), Trưởng Ban Phụ vận Khu ủy cùng các đồng chí Nguyễn Thị Ngoan (Bí thư Ban Phụ vận nội thành), Nguyễn Thị Chơn, Trần Thị Lan, Ngô Bá Thành… đã từng sống và làm việc. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Thị Riêng, cơ sở Ban Trí vận Khu ủy đã viết, in và phát hành một số tờ báo như: “Phụ nữ”, “Sài Gòn vùng lên”, “Trung lập” và tổ chức đưa một số phụ nữ vào hoạt động trong các phong trào: “Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ”, “Phụ nữ đòi quyền sống”, “Đòi cải thiện chế độ lao tù”…Đặc biệt, trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng Vũ trang Ban Phụ vận cũng đã sử dụng nơi đây để cất dấu vũ khí chuẩn bị cho chiến dịch. Đồng chí Đoàn Lê Phong, Đỗ Ngọc Trinh (Bảy Hà), cán bộ Thành Đoàn sử dụng làm điểm tập kết lực lượng đi phá kềm ở Chợ Bàn Cờ, tổ chức may cờ đi treo và viết truyền đơn rải ở chợ kêu gọi đồng bào đấu tranh chống địch. Năm 1969, tại ngôi nhà này bà Trần Thị Ngọc Sương đã lưu trữ nhiều báo chí, tài liệu để chuyển đến cho phái đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Paris để nắm tin tức đấu tranh tại Hội nghị. Ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (30 tháng 4 năm 1975), Đoàn cán bộ tiếp quản thành phố của Thành ủy do đồng chí Phạm Khải (Ba Ka) dẫn đầu xuất phát từ ngôi nhà này đi tiếp quản Bưu điện và Tòa Đô chính Sài Gòn. Với những giá trị lịch sử đó , Cơ sở Ban Tuyên huấn xứ ủy Nam Bộ được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa /Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1998. Nguồn Trang thông tin điện tử quận 3, thành phố Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 2325 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Sở chỉ huy tiền phương Phân khu 6 trong chiến dịch Mậu Thân 1968

Sở chỉ huy Tiền phương - Phân khu 6 (Đặc khu Sài Gòn - Gia Định) quyết định dùng tiệm phở Bình làm trụ sở tập kết các chiến sĩ, cán bộ để truyền đạt mệnh lệnh trong cuộc Tổng tiến công và Nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Ông Nguyễn Văn Tri, người được phân công phụ trách Sở chỉ huy Tiền phương đã báo cáo tình hình, động viên, bố trí công việc cho anh chị em tại đây, trao đổi với các cụm, rà soát lại các hầm ém vũ khí và các hợp đồng nhận vũ khí. Di tích là tiệm phở Bình, số 7 đường Yên Đỗ (nay là đường Lý Chính Thắng), phường 8, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Đó là căn nhà phố: 1 trệt, 3 lầu và 1 sân thượng. Mặt bằng tầng trệt có diện tích: 4m x 19m nở hậu, giữa có cầu thang bằng đá rửa. Phần trệt dùng làm tiệm phở, theo thiết kế bếp nấu chiếm nửa hành lang mặt tiền. Bên trong bố trí bàn ăn thực khách, chừa lối đi ở giữa. Cách ly nhà bếp, nhà vệ sinh, hồ nước với phòng thực khách có thang lầu dẫn lên tầng 1,2,3. Mỗi tầng được chia làm 2 phòng: phòng phía trước (có diện tích 3m x 3,5m) và phòng phía sau (có diện tích 3m x 4m). Một thang sắt bắc lên sân thượng. Mỗi lầu đều có hàng ba phía trước có kích thước 1,2m x 4m che chắn bên ngoài bằng tấm sáo trúc. Tiệm phở nằm trong trung tâm dân cư, rộng thoáng, khách ăn tương đối đông nên đơn vị biệt động dùng làm cơ sở liên lạc, tiếp nhận tài liệu. Ba chiến sĩ trong đội biệt động cũng được bố trí trong vai người giúp việc tại tiệm phở. Từ năm 1967, đã có nhiều cán bộ, chiến sĩ đến trú tại tiệm phở Bình công tác hoặc hội họp vài ngày. Khoảng một tháng trước Tết Mậu Thân, ông Hai Trí đến tiệm phở chỉ thị cho ông Ngô Toại gấp rút dự trữ lương thực cho khoảng 100 người dùng trong 1 tháng. Chấp hành mệnh lệnh, ông Ngô Toại tích trữ một số lương thực, thực phẩm (lương khô, đồ hộp, gà, vịt sống ...) Đêm ba mươi Tết Mậu Thân (năm 1968), chỉ huy các đơn vị biệt động thuộc Phân khu 6 đã tập kết tại nhà số 7 Đường Yên Đỗ chuẩn bị nhận nhiệm vụ: Đồng chí Tư Chu (Nguyễn Đức Hùng) được cử giữ chức Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Phân khu 6; Hai Trí (Nguyễn Văn Trí) - Chính trị viên cụm J9 (A30, đơn vị bảo đảm chiến đấu); Ba Đen (Ngô Thành Vân) - Đội trưởng A30, Đội trưởng đội biệt động 11 trong đợt 1 chiến dịch (đơn vị đánh tòa Đại sứ quán Mỹ); Ba Phong (Đỗ Tấn Phong) - Chỉ huy trưởng Cụm Biệt động 679 (trong đợt 1 chiến dịch);… cùng các cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ chuyên chở vũ khí, thông tin - cơ yếu và quân y. Mùng một Tết Mậu Thân (ngày 30 tháng 01 năm 1968), đồng chí Ba Thắng (Võ Văn Thành) - Chính ủy Phân khu 6 đến Sở Chỉ huy để chỉ đạo các đơn vị. Đêm mùng một Tết, trên tầng ba ngôi nhà, cán bộ, chiến sĩ, cơ sở, Ban Chỉ huy các cụm, các đội biệt động, các đơn vị phục vụ đã tập hợp đông đủ, chờ mệnh lệnh tiến công. Lúc 23 giờ 30 phút, thay mặt Bộ Chỉ huy Phân khu 6, đồng chí Ba Thắng đã đọc lời hiệu triệu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, phổ biến giờ và phát lệnh cho các cụm biệt động làm nhiệm vụ xung kích, tiến công các mục tiêu đầu não của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai tại Sài Gòn. Sáng mùng hai Tết Mậu Thân, nhận thấy có dấu hiệu cơ sở đã bị lộ, đồng chí Ba Thắng ra lệnh phân tán lực lượng tại đây, riêng các đồng chí hoạt động hợp pháp tiếp tục ở lại. Sáng mùng ba Tết Mậu Thân, khi các đồng chí chỉ huy đã rời khỏi, quân đội Sài Gòn bao vây tiệm Phở Bình, bắt hai vợ chồng đồng chí Ngô Toại, con gái, con rể và 13 cán bộ, chiến sĩ liên lạc còn ở lại theo yêu cầu nhiệm vụ. Đồng chí Ngô Toại bị địch tra tấn hết sức dã man trong 20 ngày vẫn không khai nhận điều gì. Đồng chí bị đày ra Côn Đảo và giữ lòng trung kiên với cách mạng cho đến lúc được trao trả tù binh sau Hiệp định Pa-ri 1973. Di tích cơ sở bí mật này của lực lượng Biệt động Thành là nơi phát lệnh tổng tiến công cho các đơn vị biệt động và lực lượng nổi dậy nội thành, ghi lại dấu mốc lịch sử quan trọng của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại Sài Gòn – Gia Định. Di tích còn là sự thể hiện tấm lòng yêu nước của nhân dân nội thành và tinh thần dũng cảm, bất khuất của các cán bộ, chiến sĩ cách mạng, đặc biệt là của lực lượng Biệt động Thành trong xây dựng lực lượng và chiến đấu. Di tích đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử qua quyết định số 1288 - Văn Hóa /Quyết Định ngày 16/11/1988. Nguồn Trang thông tin điện tử quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2599 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

DI TÍCH LỊCH SỬ NƠI ĐỒNG CHÍ NGUYỄN TẤT THÀNH ĐÃ Ở TRƯỚC KHI RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

Năm 1910, Nguyễn Tất Thành rời trường Dục Thanh - Phan Thiết vào Sài Gòn (ngày 19 tháng 9 năm 1910). Người được cán bộ của Liên Thành thương quán là ông Trương Gia Mô (bạn thân của ông Nguyễn Sinh Huy, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh) và ông Hồ Tá Bang giúp đỡ đưa về ở tại căn nhà số 5 đường Châu Văn Liêm. Đây là một trong những cơ sở của Liên Thành thương quán, một tổ chức hoạt động cách mạng rất có uy tín tại Sài Gòn để sinh sống và chuẩn bị cho việc ra đi tìm đường cứu nước. Từ căn nhà này, Nguyễn Tất Thành vừa đi dạy học vừa đi làm và học nghề ở trường thợ máy École des Mécaniciens, có lúc đi bán báo ở khu vực thương cảng Sài Gòn để kiếm sống và tìm hiểu đời sống công nhân, nhân dân lao động cũng như các tàu ra vào cảng Sài Gòn. Trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành quen một số người Việt làm ở hãng Năm Sao (hãng tàu Năm Sao thường chạy tuyến hàng hải Sài Gòn - Đà Nẵng, Colombo và một số cảng của Pháp) như Nguyễn Văn Hùm, Bùi Văn Viên… Được biết hãng này đang tuyển “bồi”, Nguyễn Tất Thành và một số người Việt Nam đã đến xin việc và được hãng thu nhận. Ngày 4 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba (do các ông Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang và Trần Lê Chất giúp đỡ và đổi tên là Văn Ba trước khi vào Sài Gòn) đã rời cơ sở Liên Thành thương quán xuống con tàu của Pháp mang tên Amiral Latouche Treville. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, con tàu rời bến cảng Nhà Rồng - Sài Gòn đưa theo Văn Ba (Nguyễn Tất Thành) bắt đầu xa quê hương Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước. Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin và đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Suốt cả cuộc đời, Người đã vì nước, vì dân. Tư tưởng và đạo đức của Người luôn tỏa sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội - Chủ nghĩa cộng sản. Căn nhà số 5 đường Châu Văn Liêm có giá trị lịch sử - là nơi ghi dấu một giai đoạn rất quan trọng trong bước đường đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại đây, có một khu trưng bày những hình ảnh về Công ty Liên Thành và hình ảnh Sài Gòn thời kỳ 1910 - 1911. Với ý nghĩa lịch sử ấy, căn nhà này được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử Quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa/Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2478 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích lịch sử chiến trường Bình Giã

Đầu những năm 60 của thế kỷ 20, Bình Giã là địa bàn quan trọng đối với địch về quân sự, chính trị, kinh tế. Xung quanh Bình Giã, địch bố trí một lực lượng quân sự hùng hậu, được trang bị vũ khí hiện đại, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cố vấn Mỹ. Trước tình hình này, để tạo thế và lực mới cho cách mạng miền Nam, ngày 2-12-1964, ta quyết định mở chiến dịch Bình Giã. Lực lượng tham gia Chiến dịch Bình Giã của ta gồm có: 2 trung đoàn bộ binh (761 và 762), 4 tiểu đoàn trợ chiến (cối 81, ĐKZ 75, trọng liên 12,7) của Bộ Tư lệnh miền; 2 tiểu đoàn (d800 và d500) của Quân khu 7; đại đội 445 của tỉnh Bà Rịa; 1 tiểu đoàn (d186) của Quân khu 6 và lực lượng tại chỗ của địa phương. Vũ khí trang bị cho các lực lượng chủ yếu là vũ khí cũ và vũ khí lấy được của địch trong các trận chiến trước đó. Mặc dù lực lượng tham gia chiến dịch mỏng, trang bị vũ khí còn thiếu thốn và thô sơ nhưng dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Trung ương cục, Bộ Tư lệnh miền và đặc biệt là tinh thần chiến đấu anh dũng của các cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân, ta đã giành chiến thắng vang dội. Kết thúc Chiến dịch Bình Giã (7-3-1965), ta tiêu diệt gọn Tiểu đoàn thủy quân lục chiến 4, Tiểu đoàn biệt động quân 33 và Chi đoàn xe cơ giới M113; đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn khác và nhiều đại đội; bắn rơi, phá hủy 56 máy bay, 45 xe quân sự; tiêu diệt và làm bị thương hơn 1.700 quân địch; thu hơn 1.000 khẩu súng các loại và gần 100 máy thông tin. Qua chiến dịch, ta phá banh, phá rã nhiều “ấp chiến lược”, cơ bản giải phóng vùng nông thôn các huyện Châu Đức, Long Đất, Xuyên Mộc và một phần huyện Xuân Lộc. Nhờ vậy, căn cứ kháng chiến của ta được mở rộng từ Châu Pha, Hắc Dịch nối liền với chiến khu D. Chiến thắng Bình Giã có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với cách mạng miền Nam. Chiến thắng này đã chứng minh tính đúng đắn về đường lối cách mạng miền Nam của Đảng; chứng tỏ sự trưởng thành của quân đội ta về chiến thuật, chiến dịch và nghệ thuật chỉ đạo tác chiến; tạo bước ngoặt so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Bên cạnh đó, Chiến thắng Bình Giã còn có ý nghĩa chính trị to lớn ở trong và ngoài nước. Nó tăng thêm niềm tin tất thắng của toàn dân, toàn quân ta, từ đó tiếp tục vượt qua mọi khó khăn gian khổ, vươn lên giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vào ngày 30-4-1975. Để ghi dấu chiến công vang dội trong kháng chiến chống Mỹ trên vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu, Lãnh đạo và nhân dân trong Tỉnh đã xây dựng tượng đài Chiến thắng Bình Giã nằm sát bên quốc lộ 56, thị trấn Ngãi Giao. Khuôn viên Tượng đài rộng 20.000m2, gồm vườn hoa, khu Tượng đài, Đền thờ và các công trình phụ... Thân tượng cao 26m, màu ghi sáng, đặt trên bệ đá hoa cương đen cao 3m, tạo cảm giác mạnh mẽ. Với ba bàn tay nắm chặt đốc lê, phía trên là ba lưỡi lê vươn lên nền trời xanh tượng trưng cho ba thứ quân và ba mũi giáp công trong chiến thắng Bình Giã. Hai bên tượng đài là hai bức phù điêu (dài 7m, cao 3m) được ghép từ hàng ngàn mảnh gốm màu Bát Tràng (Hà Nội) thể hiện sự phối hợp chiến đấu và chiến thắng trong chiến dịch Bình Giã. Di tích đã được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 2754-Quyết Định /Bộ Trưởng, ngày 15 tháng 10 năm 1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 2430 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử khu căn cứ Núi Dinh

Khu căn cứ Núi Dinh thuộc địa phận 3 xã: Hội Bài, Long Hương và Châu Pha huyện Châu Thành tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Vào đời vua Gia Long, Núi Dinh thuộc tổng Phước An, phủ Long Phước, thị trấn Biên Hòa. Đời Minh Mạng, Núi Dinh thuộc phủ Phước Tuy, trấn Biên Hòa., trước 1975 thuộc tỉnh Phước Tuy, sau đó thuộc tỉnh Đồng Nai. Dãy Núi Dinh nằm về phía đông bắc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, là một dãy núi quan trọng trong tỉnh với nhiều ngọn núi cao: núi Cao 193m, núi Dinh cao 491m, núi Bao Quan 504m, núi Da Dâu 436m. Núi Dinh được cấu tạo bằng đá Granit trong, hạt mịn màu ghi hoặc đen rất có giá trị trong xây dựng. Địa hình củ Núi Dinh có vị trí chiến lược quan trọng, từ đây có thể bao quát, án nhữ toàn bộ khu vực phía đông Sài Gòn, phía bắc là thành phố Biên Hòa cách 97 km, phía đông là căn cứ Minh Đạm (Long Đất), phía nam là Biển Đông, phía tây là thành phố Vũng Tàu cách 22 km, sông Lòng Tàu và sông Thị Vải. ới địa thế hiểm trở và thuận lợi, Núi Dinh được Thị ủy Bà Rịa và huyện Châu Đức tỉnh BRVT chọn làm căn cứ cách mạng trong 2 thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Từ căn cứ vừa có thể quan sát tập hợp lực lượng thọc sâu vào trung tâm đầu não và uy hiếp địch. Ngược lại địch dễ dàng tập trung đánh căn cứ bất kỳ lúc nào vào lực lượng của ta trên căn cứ. Căn cứ cách mạng núi Dinh (quốc lộ 51, thuộc địa phận thị xã Bà Rịa và huyện Tân Thành) là di tích lịch sử cách mạng độc đáo của Tỉnh, trải dài trên một diện tích rộng địa hình phức tạp, an toàn trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của tỉnh. Hiện trạng cảnh quan di tích không có sự thay đổi nhiều. Cảnh quan và cây rừng được bảo vệ và phát triển tốt. Các hang động vách núi đá thiên nhiên, địa hình xưa kia tận dụng làm căn cứ vẫn còn nguyên vẹn, không có sự xâm hại bởi yếu tố con người. Di tích bao gồm các địa điểm: Hang Dây Bí, hang Tổ, hang Mai, hang Ông Trọng, căn cứ Bưng Lùng, hang Dơi, căn cứ Chùa Diệu Linh. Với giá trị lịch sử to lớn đó , khu căn cứ Núi Dinh được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng di tích quốc gia theo Quyết Định số 2015 Văn Hóa /Quyết Định, ngày 16/12/1993 của Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 2485 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Niết Bàn Tịnh Xá

Chùa nằm trên sườn Núi Nhỏ, hướng mặt ra biển. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc sắc sảo. Ngày 14/12/1989, chùa được Bộ Văn hóa, Thông tin công nhận xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định 1987. Trước chùa có một trụ Phướn cao 21m, có 42 não biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, trụ được đúc bê tông, dưới to, trên nhỏ dần, xung quanh ốp gạch men màu vàng đỏ, trên có ba nhánh búp sen tỏa đều ra ba hướng là một nét độc đáo của Niết Bàn Tịnh Xá. Hai bên cổng chùa đặt 2 pho tượng "Thần Thiện" và "Thần Ác". Khu chính điện thờ bức tượng "Phật Nằm" màu nâu hồng được đánh bóng công phu, khéo léo nằm nghiêng nhìn về hướng Tây, dài 12m và được đặt lên bệ thờ cao 2,5m. Mặt ngoài của bệ thờ có hình tượng các đồ đệ của Phật Thích Ca đang chứng kiến lúc ngài nhập điện. Phía trên đầu và sau lưng Đức Phật Nhật Niết Bàn là quang cảnh thiên nhiên xanh với 2 cây Long Thọ, điểm tô thêm con công, con hạc dang rộng cánh ẩn hiện trong mây, con sư tử, con hổ, con khỉ phủ phục Chầu Đức Phật viên tịch Nhập Niết Bàn. Tất cả đều được đắp nổi, chạm khắc công phu với màu sắc hài hòa, tạo nên khung cảnh vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh chốn cửa Phật. Phía trước chánh điện có một chiếc lư đồng Tứ Linh (Long, Ly, Quy, Phụng) có kích thước lớn, được trang trí khéo léo công phu là báu vật của chùa. Phía sau chánh điện là "Trai đường" của Chư Tăng. Trong phòng có treo 34 bức ảnh diễn tả lại cuộc đời đức phật từ khi sinh ra đến khi các đệ tử chia nhau Xá Lợi. Trong phòng còn bài trí nhiều tranh tượng khác như tranh Di Lặc Lục Trần... Khoảng sân lầu 3 có nhiều cây cảnh, nhưng đặc biệt là chiếc thuyền Bát nhã, hình tượng một con rồng lớn cách điệu, dài 12m, xung quanh được ốp mảnh sứ men lam, men màu. Thuyền tượng trưng cho sự cứu vớt con người ra khỏi khổ ải đến chốn vĩnh cửu bất diệt. Nổi bật trên sân này là một lầu chuông hình vuông, bốn mái uốn cong, trong tháp có một chuông lớn gọi là Đại Hồng Chung, cao 2,8m, chu vi 3,8m, nặng tới 3,5 tấn. Đây là chiếc chuông lớn nhất, nặng nhất và có âm vang hay nhất trong các chuông chùa hiện có ở Vũng Tàu. tương truyền rằng những ai đến đây khấn vái, cầu nguyện xin an lành nếu dán được mảnh giấy cầu an lên chiếc chuông này thì sẽ được toại nguyện. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 2001 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích lịch sử Minh Đạm

Nằm ở phía đông nam huyện Đất Đỏ, khu căn cứ Minh Đạm (hay còn gọi núi Minh Đạm) trước kia còn có tên gọi là Châu Long – Châu Viên. Núi Minh Đạm dài 8km và độ cao là 355m, với 3 mặt giáp biển cùng nhiều hang đá lớn nhỏ bí ẩn núp dưới những rừng cây, vách đá, suối nước ngọt róc rách quanh năm. Núi Minh Đạm được bắt nguồn từ tên ghép của hai chiến sĩ cách mạng đã hi sinh khi đang bị phục kích ở dưới chân núi – Bùi Công Minh và Mạc Thanh Đạm. Năm 1993, nơi đây đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (tiền thân của bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia và trở thành địa điểm du lịch về nguồn lý tưởng cho du khách. Núi Minh Đạm là nơi ghi nhận công ơn của các anh hùng dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Căn cứ hoạt động cách mạng ở núi Minh Đạm thời điểm đó có tên gọi là “chiến khu Minh Đạm”. Nay sau khi được trùng tu, xây dựng lại thành địa điểm tham quan du lịch có tên gọi ”khu di tích Minh Đạm”. Căn cứ núi Minh Đạm có 4 khu vực chính: Chùa Viên, Chùa Giếng Gạch, khu Châu Viên và khu Đá Chẻ được nối với nhau bằng con đường lát đá xuyên rừng. Tại đây, những dấu tích thuở xưa đang được bảo tồn là các kỷ vật thời chiến như bàn ghế, bếp núc, cầu gỗ cùng một số vật dụng thô sơ giúp cho khách tham quan có thể hiểu rõ hơn về cuộc sống sinh hoạt của bộ đội ta như cách tạo ra lửa từ đá, nấu cơm lam từ ống nứa... Đến với Núi Minh Đạm ngoài việc tìm hiểu về lịch sử, bạn còn được tham quan nhiều nơi lý thú, đặt chân vào những hang đá xưa kia từng là nơi làm việc, sinh hoạt của cán bộ, quân dân Bà Rịa – Vũng Tàu như hang Huyện Ủy, Quân Y, Quân Giới ….Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp( 1946 - 1954), dãy núi Minh Đạm là căn cứ của lực lượng cách mạng địa phương. Do địa hình núi phức tạp, khó tiếp cận, quân và dân ta đã chọn đây làm căn cứ chiến đấu bảo vệ cho các cuộc tấn công vào quân Pháp. Trong suốt thời gian này nhiều trận đánh lớn đã diễn ra tại đây, và quân đội Việt Minh đã lập được nhiều chiến công vang dội. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1955 - 1975), núi Minh Đạm tiếp tục trở thành căn cứ quân sự quan trọng của lực lượng cách mạng. Ngoài ra, Minh Đạm còn là nơi tưởng niệm những chiến sĩ hy sinh vì sự nghiệp dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 2055 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Nhà Tròn Bà Rịa

Nhà Tròn Bà Rịa là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia mang nhiều ý nghĩa về lịch sử, là nơi ghi dấu nhiều sự kiện quan trọng trong cuộc cách mạng vì độc lập của người dân Bà Rịa - Vũng Tàu. Được gọi là Chatoau deau, Nhà tròn Bà Rịa là một tháp nước nhưng tựa như tháp canh mà từ đây có thể quan sát nhiều hướng đường từ các tỉnh thành đi vào Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhà Tròn Bà Rịa có tổng chiều cao khoảng 20m, chân nhà tròn là nhà hình bát giác cao 4m, cạnh 6m, có 8 trụ thẳng đứng bằng bê tông cốt thép có các xà ngang cố định cột để đỡ bồn nước bên trên. Bồn chứa nước có đường kính hơn 7m, mái che của nó được lợp bằng tôn. Dẫn nước lên bồn có 2 đường ống lên và xuống được bố trí nằm giữa các trụ bồn và một thang sắt để tiện lên xuống. Phía dưới bồn nước khi xưa còn có lắp đặt loa báo động đến nay vẫn còn và hiện tại còn có thêm loa truyền thanh của huyện Châu Thành. Sau chiến tranh, Nhà Tròn Bà Rịa được tu sửa lại và hiện nay được dùng làm Câu lạc bộ Thanh niên Bà Rịa. Có lẽ trong các di tích lịch sử, Nhà Tròn Bà Rịa là một điểm nhấn khá khiêm tốn nhưng đã từng có vị trí và vai trò quan trọng trong lịch sử của địa phương. Đến nay với nhiều người, mỗi lần đi ngang qua Nhà Tròn, lại là một lần khơi gợi chặng đường đáng nhớ trong lịch sử có nhiều sự kiện đã diễn ra. Nhà Tròn Bà Rịa như biểu tượng của một kho ký ức của bao người về một thời đau khổ có, nước mắt có nhưng cũng đầy tự hào về sự can đảm, hy sinh cũng như tình yêu đất nước mãnh liệt. Nhà Tròn Bà Rịa được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia ngày 05/06/1987. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 2132 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích Nhà Lớn Long Sơn

Nhà Lớn Long Sơn là nơi thờ cúng đạo Khổng Tử, và nhà Thánh (thờ Khổng Tử). Chánh Điện là khu vực đầu tiên được xây dựng, tiếp sau đó là lầu Tiên, lầu Phật, lầu Cấm, nhà khách, vườn hoa và cổng tam quan lần lượt được xây dựng. Sau khi khu vực thờ cúng được hoàn thành, ông cho xây dựng lầu Dài, làm nơi nghỉ ngơi cho người đến thăm viếng, rồi tiếp tục xây 5 dãy phố cho cư dân đến lập nghiệp, trường học dạy chữ quốc ngữ và nhiều công trình thiết thực khác như nhà chợ, nhà máy xay lúa gạo, kho chứa thóc, nhà đèn, nhà thợ mộc, nhà bếp và nhiều hồ chứa nước ngọt … Tất cả những công trình này đều nằm trong một khu nên được gọi là Nhà Lớn. Sau khi ông mất, khu di tích này còn được gọi là đền Ông Trần. Nhà Lớn Long Sơn được xây dựng với phong cách pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian (trời, đất) với Nho giáo, Lão giáo của Khổng Tử. Đa phần các vật dụng chính trong Nhà Lớn đều được làm bằng gỗ xà cừ và cẩn hoa cương. Tại đây cũng có rất nhiều món đồ cổ quý giá như bộ tủ thờ, bộ lư hương và chân đèn cổ, nhiều bức hoành phi, liễn thờ, những vật dụng này được ông sưu tầm và đem về lưu trữ sau những chuyến hàng có lời từ Sài Gòn. Tín ngưỡng thờ Khổng Tử không yêu cầu quá nhiều nhang, đèn, kinh, kệ mà chủ yếu là những lời dạy, sách của đạo giáo mang ý nghĩa khai mở tri thức và khuyên răn con người. Du khách đến đây sẽ được đi tham quan hoàn toàn miễn phí, thậm chí còn được thưởng thức khoai mì, bánh ít trần, nhưng có một chú ý du khách nên chụp hình tại những nơi thờ cúng, chánh điện. Khi Ông Trần mất, ngoài đạo giáo của Khổng Tử, ở đây còn hình thành tín ngưỡng đạo ông Trần, vốn pha trộn nhiều đạo giáo khác nhau, nhưng chủ đích vẫn hướng con người đến với chân - thiện - mỹ. Con cháu của ông vẫn giữ gìn những phong tục, tập quán của ông, vẫn mặc quần áo bà ba, đi chân đất, tóc búi gọn gàng, để giữ vững hình tượng mà Ông Trần để lại, từ sinh hoạt đến cả tính cách đậm chất Nam Bộ. Nếu bạn có cơ hội ghé qua đảo Long Sơn, hãy nhớ ghé khu di tích Nhà Lớn Long Sơn, để tham quan Nhà Lớn và tìm hiểu về đạo Ông Trần. Với những giá trị văn hóa đặc sắc , khu di tích Nhà Lớn Long Sơn được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết Định số 1371 Văn Hóa /Quyết Định, ngày 03/08/1991 của Bộ Văn hóa Thông tin – Thể Thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 2076 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Trận địa pháo cổ trên núi Tao Phùng (núi Nhỏ)

Trận địa pháo này cũng thuộc một trong ba trận địa, tạo thành tuyến phòng thủ Vũng Tàu của người Pháp được xây dựng cùng thời điểm với trận địa pháo cổ Núi Lớn. Trận địa pháo Núi Nhỏ có chức năng là chốt tiền tiêu và được bố trí thành ba cụm theo thế vòng cung bao quát cả vùng Biển Đông và Nam Vũng Tàu. Để xây dựng một trận địa pháo có thể nói là lớn nhất lúc bấy giờ thực dân Pháp đã bắt người dân lao dịch khổ sai dùng sức người xẻ đá ,phá núi làm đường, đào hào giao thông, xây hầm công sự đều làm bằng thủ công, phương tiện thô sơ đã cướp đi biết bao tính mạng, mồ hôi, xương máu của nhân dân ta. Với giá trị đó , Di tích Trận địa pháo cổ trên núi Tao Phùng (núi Nhỏ) được Bộ Văn Hóa Thông Tin theo Quyết Định số 57Văn Hóa/Quyết Định, ngày 18/01/1993 của Bộ Văn Hóa Thông Tin. Trận địa pháo cổ Vũng Tàu là bộ sưu tập vũ khí cổ lớn nhất Đông Dương, đây là một chứng tích lịch sử về sức mạnh phi thường của nhân dân ta. Từ Trận địa Pháo Núi Lớn du khách ôm theo bờ biển đi về phía Bãi Trước, đến đường Hải Đăng rẽ phải trước khi gặp đoạn đường cua đầu tiên hoặc đi theo lối vào Tịnh Xá Ngọc Bích và phía dưới chân tượng Chúa Ki Tô du khách bắt gặp một trong số 11 đại pháo của trận địa Núi Nhỏ được chia thành 3 cụm: + Cụm thứ nhất ngay dưới chân tượng chúa Ki tô, gồm 3 khẩu ở độ cao trung bình 136m so với mực nước biển và được đặt trong một công sự đào sâu dưới mặt đất. có đường kính 10,5m, ba cỗ pháo này có cùng kiểu dáng, cấu tạo, và cỡ đạn là 240mm, nòng dài 12,33mm, trên thân các cớ pháo đều ghi các dấu hiệu, kích cỡ nòng súng, kiểu dáng và năm sản xuất, trọng lượng của pháo và phân hiệu của đội. + Cụm thứ hai ( đặt tại Hải Đăng), gồm 5 khẩu, độ cao trung bình 91 m so với mực nước biển. Năm cỗ pháo này đều có cùng kiểu dáng, cấu tạo và cỡ đạn là 300mm. Trên thân pháo đều ghi các thông số cần thiết. . Cụm này nằm cách cụm pháo thứ nhất chừng 300m về phía Bắc. Hiện nay còn lại 04 khẩu, một khẩu chỉ còn lại mâm pháo do súng được chuyển về trưng bày trong bộ sưu tập súng cổ ở sân Bạch Dinh. +Cụm thứ (Tịnh xá Ngọc Bích), có 3 khẩu, ở độ cao trung bình khoảng 90m so với mực nước biển. Ba cỗ pháo của cụm này có cỡ đạn bằng nhau là 140mm. trên thân pháo đều ghi các thông số cần thiết. Hiện nay, 3 cỗ pháo này bị hoen rỉ hư hại nặng, các thông số cần thiết. Hiện nay, 3 cỗ pháo này bị hoen rủ hư hại nặng, các thông số bị mài mòn. Ba cỗ pháo được đặt riêng biệt trong ba công sự, cách đều nhau 27m và được nối thông với nhau bằng hệ thống giao thông hào và hầm trú ẩn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 2087 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Điểm di tích nổi bật