Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Khu căn cứ Núi Dinh thuộc địa phận 3 xã: Hội Bài, Long Hương và Châu Pha huyện Châu Thành tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Vào đời vua Gia Long, Núi Dinh thuộc tổng Phước An, phủ Long Phước, thị trấn Biên Hòa. Đời Minh Mạng, Núi Dinh thuộc phủ Phước Tuy, trấn Biên Hòa., trước 1975 thuộc tỉnh Phước Tuy, sau đó thuộc tỉnh Đồng Nai. Dãy Núi Dinh nằm về phía đông bắc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, là một dãy núi quan trọng trong tỉnh với nhiều ngọn núi cao: núi Cao 193m, núi Dinh cao 491m, núi Bao Quan 504m, núi Da Dâu 436m. Núi Dinh được cấu tạo bằng đá Granit trong, hạt mịn màu ghi hoặc đen rất có giá trị trong xây dựng. Địa hình củ Núi Dinh có vị trí chiến lược quan trọng, từ đây có thể bao quát, án nhữ toàn bộ khu vực phía đông Sài Gòn, phía bắc là thành phố Biên Hòa cách 97 km, phía đông là căn cứ Minh Đạm (Long Đất), phía nam là Biển Đông, phía tây là thành phố Vũng Tàu cách 22 km, sông Lòng Tàu và sông Thị Vải. ới địa thế hiểm trở và thuận lợi, Núi Dinh được Thị ủy Bà Rịa và huyện Châu Đức tỉnh BRVT chọn làm căn cứ cách mạng trong 2 thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Từ căn cứ vừa có thể quan sát tập hợp lực lượng thọc sâu vào trung tâm đầu não và uy hiếp địch. Ngược lại địch dễ dàng tập trung đánh căn cứ bất kỳ lúc nào vào lực lượng của ta trên căn cứ. Căn cứ cách mạng núi Dinh (quốc lộ 51, thuộc địa phận thị xã Bà Rịa và huyện Tân Thành) là di tích lịch sử cách mạng độc đáo của Tỉnh, trải dài trên một diện tích rộng địa hình phức tạp, an toàn trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của tỉnh. Hiện trạng cảnh quan di tích không có sự thay đổi nhiều. Cảnh quan và cây rừng được bảo vệ và phát triển tốt. Các hang động vách núi đá thiên nhiên, địa hình xưa kia tận dụng làm căn cứ vẫn còn nguyên vẹn, không có sự xâm hại bởi yếu tố con người. Di tích bao gồm các địa điểm: Hang Dây Bí, hang Tổ, hang Mai, hang Ông Trọng, căn cứ Bưng Lùng, hang Dơi, căn cứ Chùa Diệu Linh. Với giá trị lịch sử to lớn đó , khu căn cứ Núi Dinh được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng di tích quốc gia theo Quyết Định số 2015 Văn Hóa /Quyết Định, ngày 16/12/1993 của Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1234 lượt xem
Chùa nằm trên sườn Núi Nhỏ, hướng mặt ra biển. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc sắc sảo. Ngày 14/12/1989, chùa được Bộ Văn hóa, Thông tin công nhận xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định 1987. Trước chùa có một trụ Phướn cao 21m, có 42 não biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, trụ được đúc bê tông, dưới to, trên nhỏ dần, xung quanh ốp gạch men màu vàng đỏ, trên có ba nhánh búp sen tỏa đều ra ba hướng là một nét độc đáo của Niết Bàn Tịnh Xá. Hai bên cổng chùa đặt 2 pho tượng "Thần Thiện" và "Thần Ác". Khu chính điện thờ bức tượng "Phật Nằm" màu nâu hồng được đánh bóng công phu, khéo léo nằm nghiêng nhìn về hướng Tây, dài 12m và được đặt lên bệ thờ cao 2,5m. Mặt ngoài của bệ thờ có hình tượng các đồ đệ của Phật Thích Ca đang chứng kiến lúc ngài nhập điện. Phía trên đầu và sau lưng Đức Phật Nhật Niết Bàn là quang cảnh thiên nhiên xanh với 2 cây Long Thọ, điểm tô thêm con công, con hạc dang rộng cánh ẩn hiện trong mây, con sư tử, con hổ, con khỉ phủ phục Chầu Đức Phật viên tịch Nhập Niết Bàn. Tất cả đều được đắp nổi, chạm khắc công phu với màu sắc hài hòa, tạo nên khung cảnh vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh chốn cửa Phật. Phía trước chánh điện có một chiếc lư đồng Tứ Linh (Long, Ly, Quy, Phụng) có kích thước lớn, được trang trí khéo léo công phu là báu vật của chùa. Phía sau chánh điện là "Trai đường" của Chư Tăng. Trong phòng có treo 34 bức ảnh diễn tả lại cuộc đời đức phật từ khi sinh ra đến khi các đệ tử chia nhau Xá Lợi. Trong phòng còn bài trí nhiều tranh tượng khác như tranh Di Lặc Lục Trần... Khoảng sân lầu 3 có nhiều cây cảnh, nhưng đặc biệt là chiếc thuyền Bát nhã, hình tượng một con rồng lớn cách điệu, dài 12m, xung quanh được ốp mảnh sứ men lam, men màu. Thuyền tượng trưng cho sự cứu vớt con người ra khỏi khổ ải đến chốn vĩnh cửu bất diệt. Nổi bật trên sân này là một lầu chuông hình vuông, bốn mái uốn cong, trong tháp có một chuông lớn gọi là Đại Hồng Chung, cao 2,8m, chu vi 3,8m, nặng tới 3,5 tấn. Đây là chiếc chuông lớn nhất, nặng nhất và có âm vang hay nhất trong các chuông chùa hiện có ở Vũng Tàu. tương truyền rằng những ai đến đây khấn vái, cầu nguyện xin an lành nếu dán được mảnh giấy cầu an lên chiếc chuông này thì sẽ được toại nguyện. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 922 lượt xem
Nằm ở phía đông nam huyện Đất Đỏ, khu căn cứ Minh Đạm (hay còn gọi núi Minh Đạm) trước kia còn có tên gọi là Châu Long – Châu Viên. Núi Minh Đạm dài 8km và độ cao là 355m, với 3 mặt giáp biển cùng nhiều hang đá lớn nhỏ bí ẩn núp dưới những rừng cây, vách đá, suối nước ngọt róc rách quanh năm. Núi Minh Đạm được bắt nguồn từ tên ghép của hai chiến sĩ cách mạng đã hi sinh khi đang bị phục kích ở dưới chân núi – Bùi Công Minh và Mạc Thanh Đạm. Năm 1993, nơi đây đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (tiền thân của bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia và trở thành địa điểm du lịch về nguồn lý tưởng cho du khách. Núi Minh Đạm là nơi ghi nhận công ơn của các anh hùng dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Căn cứ hoạt động cách mạng ở núi Minh Đạm thời điểm đó có tên gọi là “chiến khu Minh Đạm”. Nay sau khi được trùng tu, xây dựng lại thành địa điểm tham quan du lịch có tên gọi ”khu di tích Minh Đạm”. Căn cứ núi Minh Đạm có 4 khu vực chính: Chùa Viên, Chùa Giếng Gạch, khu Châu Viên và khu Đá Chẻ được nối với nhau bằng con đường lát đá xuyên rừng. Tại đây, những dấu tích thuở xưa đang được bảo tồn là các kỷ vật thời chiến như bàn ghế, bếp núc, cầu gỗ cùng một số vật dụng thô sơ giúp cho khách tham quan có thể hiểu rõ hơn về cuộc sống sinh hoạt của bộ đội ta như cách tạo ra lửa từ đá, nấu cơm lam từ ống nứa... Đến với Núi Minh Đạm ngoài việc tìm hiểu về lịch sử, bạn còn được tham quan nhiều nơi lý thú, đặt chân vào những hang đá xưa kia từng là nơi làm việc, sinh hoạt của cán bộ, quân dân Bà Rịa – Vũng Tàu như hang Huyện Ủy, Quân Y, Quân Giới ….Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp( 1946 - 1954), dãy núi Minh Đạm là căn cứ của lực lượng cách mạng địa phương. Do địa hình núi phức tạp, khó tiếp cận, quân và dân ta đã chọn đây làm căn cứ chiến đấu bảo vệ cho các cuộc tấn công vào quân Pháp. Trong suốt thời gian này nhiều trận đánh lớn đã diễn ra tại đây, và quân đội Việt Minh đã lập được nhiều chiến công vang dội. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1955 - 1975), núi Minh Đạm tiếp tục trở thành căn cứ quân sự quan trọng của lực lượng cách mạng. Ngoài ra, Minh Đạm còn là nơi tưởng niệm những chiến sĩ hy sinh vì sự nghiệp dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1000 lượt xem
Nhà Tròn Bà Rịa là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia mang nhiều ý nghĩa về lịch sử, là nơi ghi dấu nhiều sự kiện quan trọng trong cuộc cách mạng vì độc lập của người dân Bà Rịa - Vũng Tàu. Được gọi là Chatoau deau, Nhà tròn Bà Rịa là một tháp nước nhưng tựa như tháp canh mà từ đây có thể quan sát nhiều hướng đường từ các tỉnh thành đi vào Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhà Tròn Bà Rịa có tổng chiều cao khoảng 20m, chân nhà tròn là nhà hình bát giác cao 4m, cạnh 6m, có 8 trụ thẳng đứng bằng bê tông cốt thép có các xà ngang cố định cột để đỡ bồn nước bên trên. Bồn chứa nước có đường kính hơn 7m, mái che của nó được lợp bằng tôn. Dẫn nước lên bồn có 2 đường ống lên và xuống được bố trí nằm giữa các trụ bồn và một thang sắt để tiện lên xuống. Phía dưới bồn nước khi xưa còn có lắp đặt loa báo động đến nay vẫn còn và hiện tại còn có thêm loa truyền thanh của huyện Châu Thành. Sau chiến tranh, Nhà Tròn Bà Rịa được tu sửa lại và hiện nay được dùng làm Câu lạc bộ Thanh niên Bà Rịa. Có lẽ trong các di tích lịch sử, Nhà Tròn Bà Rịa là một điểm nhấn khá khiêm tốn nhưng đã từng có vị trí và vai trò quan trọng trong lịch sử của địa phương. Đến nay với nhiều người, mỗi lần đi ngang qua Nhà Tròn, lại là một lần khơi gợi chặng đường đáng nhớ trong lịch sử có nhiều sự kiện đã diễn ra. Nhà Tròn Bà Rịa như biểu tượng của một kho ký ức của bao người về một thời đau khổ có, nước mắt có nhưng cũng đầy tự hào về sự can đảm, hy sinh cũng như tình yêu đất nước mãnh liệt. Nhà Tròn Bà Rịa được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia ngày 05/06/1987. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 984 lượt xem
Nhà Lớn Long Sơn là nơi thờ cúng đạo Khổng Tử, và nhà Thánh (thờ Khổng Tử). Chánh Điện là khu vực đầu tiên được xây dựng, tiếp sau đó là lầu Tiên, lầu Phật, lầu Cấm, nhà khách, vườn hoa và cổng tam quan lần lượt được xây dựng. Sau khi khu vực thờ cúng được hoàn thành, ông cho xây dựng lầu Dài, làm nơi nghỉ ngơi cho người đến thăm viếng, rồi tiếp tục xây 5 dãy phố cho cư dân đến lập nghiệp, trường học dạy chữ quốc ngữ và nhiều công trình thiết thực khác như nhà chợ, nhà máy xay lúa gạo, kho chứa thóc, nhà đèn, nhà thợ mộc, nhà bếp và nhiều hồ chứa nước ngọt … Tất cả những công trình này đều nằm trong một khu nên được gọi là Nhà Lớn. Sau khi ông mất, khu di tích này còn được gọi là đền Ông Trần. Nhà Lớn Long Sơn được xây dựng với phong cách pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian (trời, đất) với Nho giáo, Lão giáo của Khổng Tử. Đa phần các vật dụng chính trong Nhà Lớn đều được làm bằng gỗ xà cừ và cẩn hoa cương. Tại đây cũng có rất nhiều món đồ cổ quý giá như bộ tủ thờ, bộ lư hương và chân đèn cổ, nhiều bức hoành phi, liễn thờ, những vật dụng này được ông sưu tầm và đem về lưu trữ sau những chuyến hàng có lời từ Sài Gòn. Tín ngưỡng thờ Khổng Tử không yêu cầu quá nhiều nhang, đèn, kinh, kệ mà chủ yếu là những lời dạy, sách của đạo giáo mang ý nghĩa khai mở tri thức và khuyên răn con người. Du khách đến đây sẽ được đi tham quan hoàn toàn miễn phí, thậm chí còn được thưởng thức khoai mì, bánh ít trần, nhưng có một chú ý du khách nên chụp hình tại những nơi thờ cúng, chánh điện. Khi Ông Trần mất, ngoài đạo giáo của Khổng Tử, ở đây còn hình thành tín ngưỡng đạo ông Trần, vốn pha trộn nhiều đạo giáo khác nhau, nhưng chủ đích vẫn hướng con người đến với chân - thiện - mỹ. Con cháu của ông vẫn giữ gìn những phong tục, tập quán của ông, vẫn mặc quần áo bà ba, đi chân đất, tóc búi gọn gàng, để giữ vững hình tượng mà Ông Trần để lại, từ sinh hoạt đến cả tính cách đậm chất Nam Bộ. Nếu bạn có cơ hội ghé qua đảo Long Sơn, hãy nhớ ghé khu di tích Nhà Lớn Long Sơn, để tham quan Nhà Lớn và tìm hiểu về đạo Ông Trần. Với những giá trị văn hóa đặc sắc , khu di tích Nhà Lớn Long Sơn được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết Định số 1371 Văn Hóa /Quyết Định, ngày 03/08/1991 của Bộ Văn hóa Thông tin – Thể Thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 937 lượt xem
Trận địa pháo này cũng thuộc một trong ba trận địa, tạo thành tuyến phòng thủ Vũng Tàu của người Pháp được xây dựng cùng thời điểm với trận địa pháo cổ Núi Lớn. Trận địa pháo Núi Nhỏ có chức năng là chốt tiền tiêu và được bố trí thành ba cụm theo thế vòng cung bao quát cả vùng Biển Đông và Nam Vũng Tàu. Để xây dựng một trận địa pháo có thể nói là lớn nhất lúc bấy giờ thực dân Pháp đã bắt người dân lao dịch khổ sai dùng sức người xẻ đá ,phá núi làm đường, đào hào giao thông, xây hầm công sự đều làm bằng thủ công, phương tiện thô sơ đã cướp đi biết bao tính mạng, mồ hôi, xương máu của nhân dân ta. Với giá trị đó , Di tích Trận địa pháo cổ trên núi Tao Phùng (núi Nhỏ) được Bộ Văn Hóa Thông Tin theo Quyết Định số 57Văn Hóa/Quyết Định, ngày 18/01/1993 của Bộ Văn Hóa Thông Tin. Trận địa pháo cổ Vũng Tàu là bộ sưu tập vũ khí cổ lớn nhất Đông Dương, đây là một chứng tích lịch sử về sức mạnh phi thường của nhân dân ta. Từ Trận địa Pháo Núi Lớn du khách ôm theo bờ biển đi về phía Bãi Trước, đến đường Hải Đăng rẽ phải trước khi gặp đoạn đường cua đầu tiên hoặc đi theo lối vào Tịnh Xá Ngọc Bích và phía dưới chân tượng Chúa Ki Tô du khách bắt gặp một trong số 11 đại pháo của trận địa Núi Nhỏ được chia thành 3 cụm: + Cụm thứ nhất ngay dưới chân tượng chúa Ki tô, gồm 3 khẩu ở độ cao trung bình 136m so với mực nước biển và được đặt trong một công sự đào sâu dưới mặt đất. có đường kính 10,5m, ba cỗ pháo này có cùng kiểu dáng, cấu tạo, và cỡ đạn là 240mm, nòng dài 12,33mm, trên thân các cớ pháo đều ghi các dấu hiệu, kích cỡ nòng súng, kiểu dáng và năm sản xuất, trọng lượng của pháo và phân hiệu của đội. + Cụm thứ hai ( đặt tại Hải Đăng), gồm 5 khẩu, độ cao trung bình 91 m so với mực nước biển. Năm cỗ pháo này đều có cùng kiểu dáng, cấu tạo và cỡ đạn là 300mm. Trên thân pháo đều ghi các thông số cần thiết. . Cụm này nằm cách cụm pháo thứ nhất chừng 300m về phía Bắc. Hiện nay còn lại 04 khẩu, một khẩu chỉ còn lại mâm pháo do súng được chuyển về trưng bày trong bộ sưu tập súng cổ ở sân Bạch Dinh. +Cụm thứ (Tịnh xá Ngọc Bích), có 3 khẩu, ở độ cao trung bình khoảng 90m so với mực nước biển. Ba cỗ pháo của cụm này có cỡ đạn bằng nhau là 140mm. trên thân pháo đều ghi các thông số cần thiết. Hiện nay, 3 cỗ pháo này bị hoen rỉ hư hại nặng, các thông số cần thiết. Hiện nay, 3 cỗ pháo này bị hoen rủ hư hại nặng, các thông số bị mài mòn. Ba cỗ pháo được đặt riêng biệt trong ba công sự, cách đều nhau 27m và được nối thông với nhau bằng hệ thống giao thông hào và hầm trú ẩn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 983 lượt xem
Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở thành phố Vũng Tàu, có niên đại gần 200 năm + chùa được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1992 và được xem là một trong những trung tâm phật giáo ở địa phương, thường xuyên có tăng ni phật tử trong nước và quốc tế ( chủ yếu người Ấn Độ) đến thưởng ngoạn và hành lễ. Vào những ngày lễ lớn như tết Nguyên Đán, rằm tháng Giêng, lễ phật Đản, lễ Vu Lan...số lượng tăng ni phật tử về chùa rất lớn có khi không còn chỗ nghỉ. Vì vậy chùa đang có kế hoạch tu bổ, nâng cấp mở rộng chánh điện nhưng vẫn bảo tồn được những nét kiến trúc xưa để giúp tăng ni phật tử toàn tâm hướng về đạo, đồng thời là điểm đến hấp dẫn khách hành hương, di lịch tâm linh. Chùa có kiến trúc dạng tứ trụ của chùa cổ miền Nam với hệ thống tượng phật phong phú : cạnh hồ sen là pho tượng Quan Âm Nam Hải cao 3,5m, chính điện có các pho tượng Di Dad, Tam Tôn, Thích Ca, A Nam, Ca Diếp, Phật nhập Niết Bàn, Tượng chuẩn Đề bằng gỗ, tượng ông Giám bằng đất nung... Đặc biệt, chùa còn lưu giữ tượng thần Vish NU bằng đá, có niên đại cuối thời phù Nam- Chân Lạp (khoảng thế kỷ thứ 7) rất quý hiếm.Thần VIsh Nu là thần bảo tồn vũ trụ thường ở các tháp Chàm Miền Trung Nam Bộ. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 986 lượt xem
Di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba (ấp Bình Đức, xã Bình Ba, huyện Châu Đức), là khu tưởng niệm 3.050 anh hùng liệt sĩ của Trung đoàn 33 đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng thời, là nơi yên nghỉ tập thể của 53 cán bộ, chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 - Trung đoàn 33 đã hy sinh anh dũng trong trận chiến không cân sức với kẻ thù (quân chư hầu Úc) ngày 6/6/1969. Đây là di tích lịch sử mang nhiều giá trị về lịch sử, khoa học quân sự, ca ngợi sự dũng cảm hy sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc của những người lính bộ đội cụ Hồ cùng với tình yêu thương đùm bọc của nhân dân các địa phương nơi các đồng chí đóng quân và chiến đấu đã giúp cho các đồng chí đứng vững trên chiến trường, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngày 29/12/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4248/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch xếp hạng di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba, thuộc xã Bình Ba, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là di tích cấp quốc gia để bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Đây là sự ghi nhận giá trị lịch sử, văn hóa của di tích lịch sử này, đồng thời ghi nhận những nỗ lực của Đảng bộ, Nhân dân Châu Đức, Ban Liên lạc cựu chiến binh Trung đoàn 33 và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của Di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba. Nguồn Sở Văn Hóa Thể Thao tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 944 lượt xem
Chùa cổ Long Bàn còn gọi là chùa làng Long Điền (xưa thuộc tổng An Phú Thượng, quận Long Điền) ở thôn Long Phượng, Thị Trấn Long Điền, huyện Long Điền. Chùa tọa lạc trên một khu đất cao tương đối bằng phẳng. Trải qua gần 175 năm xây dựng chùa vẫn gần như nguyên trạng, lưu giữ những nét kiến trúc văn hóa nghệ thuật đặc sắc. Chùa được xây dựng vào năm Thiệu Trị thứ 5 - năm Ất Tỵ 1845 do 2 vị hòa thượng Hải Chánh và Bảo Thanh làm trụ trì đầu tiên và được dân làng tôn làm tổ sư. Kiến trúc chùa Long Bàn nguy nga, tráng lệ với những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc mang đậm nét truyền thống độc đáo, lưu giữ văn hóa tâm linh, thờ phượng Phật pháp. "Theo truyền thuyết, vùng đất Long Điền trước kia có 9 con rồng chầu. Ngôi chùa được xây dựng trên phần cuối cùng của dãy núi Thùy Vân, có nhiều tảng đá tự nhiên phẳng như bàn thạch nên dân làng đặt tên là chùa Long Bàn", sư thầy Thích Pháp Minh diễn giải. Ngôi chùa được xây cất theo kiểu chữ "Tam", mang phong cách Á Đông gồm 3 lớp nhà song song là tòa Giảng đường, tòa Chánh điện, nhà Tổ. Khuôn viên chùa bằng phẳng, rộng hơn 3.000m2 với nhiều cây cổ thụ tỏa bóng mát. Cổng chùa được xây dựng mới năm 1963 bằng đá hoa cương. Cửa 2 bên cuốn vòm, phía trên là lầu chuông và lầu trống. Phía trên 2 trụ cổng là tấm biển có hàng chữ "Long Bàn Cổ Tự". Trước tòa Chánh điện của chùa có ngôi nhà sàn bằng gỗ, trong đặt tượng "Tiêu Diêu Đạo Sĩ". Mái chùa được lợp ngói âm dương, đầu ngói có gờ viền bằng gốm men xanh. Trên đỉnh nóc chùa có gắn tượng "Lưỡng Long chầu nguyệt" và các bức tranh vẽ phong cảnh sơn thủy, hoa lá. Các kèo, cột bên trong chùa sử dụng hoàn toàn bằng gỗ tốt. Bên trong tòa Chánh điện, ở gian giữa thờ Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Quan Âm, Thế Chí, Ngọc Hoàng, Di Lặc, Bồ Tát. Gian bên trái thờ vị sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma, gian bên phải thờ Quan Thánh. Ngoài ra, tại đây còn có bàn thờ La Hán và Thập điện Diêm Vương. Phía sau Chánh điện là nhà thờ Tổ, thờ Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma và 2 bài vị của hòa thượng Hải Chánh và hòa thượng Bảo Thanh. Tòa Giảng đường rộng 227m2, mặt trước có những câu đối khắc chìm bằng sơn đen. Phía trên 3 cửa ra vào gần sát mái là những ô trang trí, miêu tả hoa, núi và các hoạt động của con người. Đây là nơi thuyết pháp về đạo Phật, làm đàn chay cúng cô hồn, tổ chức các giờ kinh sám hối. Đã trải qua gần 175 năm xây dựng, nhưng chùa Long Bàn vẫn còn lưu giữ được nhiều hiện vật lâu đời quan trọng như các pho tượng Phật, Ngọc Hoàng Thượng đế, Quan Thánh đế, 18 vị La Hán, Long Thần, Hộ Pháp… bằng gỗ mít; 8 khuôn in kinh khắc chữ Hán trên gỗ; các quả chuông, trong đó có đại hồng chung bằng đồng đường kính 0,4m, cao 1,2m, niên đại hơn 150 năm. Chùa Long Bàn với vẻ đẹp độc đáo về kiến trúc cổ, điêu khắc nghệ thuật mang giá trị văn hóa tâm linh lâu đời, tọa lạc giữa không gian hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, ngôi chùa trở thành điểm đến tín ngưỡng Phật pháp của người dân địa phương và du khách gần xa. Năm 1991, chùa cổ Long Bàn được Bộ Văn Hóa -Thể Thao công nhận là di tích lịch sử - văn hóa - danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1041 lượt xem
Bạch Dinh được dùng làm nơi nghỉ dưỡng và hội họp cho toàn quyền Pháp ở Đông Dương và quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn sau này. Đây cũng chính là nơi giam lỏng vua Thành Thái (từ 1909-1910), một vị vua có tư tưởng yêu nước, chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp. Được tọa lạc ở vị trí cao ráo cách mực nước biển gần 30m, từ tiền sảnh Bạch Dinh nhìn xuống, du khách sẽ có cảm giác như đang ở tầng lầu của một tòa cao ốc xây dựng trên mặt nước biển, có thể phóng tầm mắt bao quát cả trung tâm thành phố Vũng Tàu. Có hai lối lên Bạch Dinh: Một đường uốn quanh chạy dưới rừng cây giá tỵ dành cho xe hơi lên tới tiền sảnh. Một đường đi bộ qua 146 bậc tam cấp cổ xưa, kín đáo nằm giữa hai hàng sứ cao niên. Bạch Dinh với lối kiến trúc Châu Âu cuối thế kỷ 19, cao 19m, rộng 15 m, dài 28 m, gồm 3 tầng: Tầng hầm làm nơi nấu nướng; tầng trệt vừa làm nơi khánh tiết vừa dùng bày trí một số hiện vật cổ xưa như: Song bình bách điểu chầu phụng, bộ tràng kỷ hoàng gia có niên đại Khải Định (1921), cặp ngà voi châu phi dài 170cm… Tầng lầu thoáng hơn dành cho việc nghỉ dưỡng. Nhưng có lẽ ấn tượng hơn cả là 8 bức chân dung tạc các vị thần Hy Lạp thời cổ đại, từ gương mặt, mắt mũi đến sắc thái đều biểu hiện rõ ràng, sắc nét và tinh tế. Trải qua hơn thế kỷ, với bao biến đổi của thời gian, Bạch Dinh vẫn giữ nguyên tính sang trọng, hài hòa và uy nghiêm hiếm thấy. Từ năm 1991 đến nay một phần của Bạch Dinh được dùng làm bảo tàng, trưng bày 8.000 hiện vật độc bản nằm trong bộ sưu tập cổ vật gốm sứ có niên hiệu Khang Hy (Thế Kỷ 17) được trục vớt từ “kho báu Hòn Cau”. Các nhà khảo cổ cho biết số cổ vật này nằm dưới đáy biển gần 300 năm, tính đến thời điểm trục vớt nhưng vẫn giữ được màu men tuyệt đẹp. Nếu đem so với những bộ sưu tập khác được trục vớt trong vùng biển Cù Lao Chàm, Cà Mau, Bình Thuận… bộ sư tập cổ vật Hòn Cau vẫn luôn được đánh giá là bộ sưu tập đẹp nhất. Bạch Dinh không chỉ làm mê mẩn toàn quyền Pháp ở Đông Dương Paul Doumer, các quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ mà cho đến thời điểm hiện tại thì đây cũng là một trong số rất nhiều địa điểm tham quan của Vũng Tàu, thu hút được đông đảo khách du lịch đến tìm hiểu về lịch sử và tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên. Với những giá trị đó ngày 4 tháng 8 năm 1992, Bạch Dinh đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 945 lượt xem
Di tích Địa đạo Long Phước thuộc xã Long Phước, cách trung tâm thành phố Bà Rịa khoảng 7 km về phía Đông Bắc. Đây là một chứng tích hào hùng của quân và dân ta trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế Quốc Mỹ xâm lược. Ngoài ra, Địa Đạo Long Phước còn là một công trình sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Di tích được công nhận là di tích quốc gia theo quyết định số 34/Văn Hóa.Quyết Định ngày 09/01/1990 của Bộ Văn hóa Thông tin. Do có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, là đầu mối căn cứ địa cách mạng của tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, nằm trên trục lộ giao thông (lộ 52 và 23), trục nối đường liên tỉnh Bà Rịa – Long Khánh nên Long Phước luôn là địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta với địch trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Năm 1948 nhằm bảo toàn lực lượng và củng cố phong trào cách mạng và cũng để đảm bảo tính mạng và tài sản của nhân dân khi có địch càn quét của địch, Đảng bộ Long Phước đã phát động phong trào đào hầm bí mật trong toàn xã. Đến năm 1949, Chi bộ xã đã có Nghị quyết xây dựng địa đạo vừa để bảo toàn lực lượng và có thể đánh trả địch. Thực hiện Nghị quyết của chi bộ quân và dân Long Phước đã phát triển hệ thống địa đạo ở 5 ấp: Đông, Tây, Nam, Bắc và Phước Hữu. Các cụm địa đạo được nối với nhau bởi đường xương sống, có hầm bí mật chứa lương thực dự trữ với các công sự chiến đấu. Đường địa đạo xương sống cách mặt đất 2-3m, lòng địa đạo cao 1,5-1,6m, rộng 0,6-0,7m đảm bảo đi lại, vận chuyển dễ dàng. Tiền thân là căn hầm nhà ông Năm Hồi với chiều dài 300 mét, nhờ đó tháng 10 năm 1949 lực lượng vũ trang cách mạng đã chiến thắng cuộc càn quét của giặc Pháp giữ vững ấp và cơ sở cách mạng. Năm 1963 địa đạo được khôi phục và phát triển ở ấp Nam Tây chiều dài 200m, có cấu trúc thêm giao thông hào, ụ chiến đấu, kho lương thực, hầm cứu thương. Địa đạo đã trở thành thế trận vững chắc để lực lượng cách mạng bám trụ kiên cường đánh bại nhiều cuộc tấn công, lấn chiếm của địch, điển hình là trận chiến 44 ngày đêm ( 05/3-01/4/1963). Ngày 05/3/1963 tiểu đoàn 61 do Quận trưởng Long Lễ trực tiếp chỉ huy cùng với lực lượng dân vệ có xe M113 yểm trợ đánh phá ấp Bắc Long Phước. Phía ta giữ vững trận địa 3 ngày liền chống trả sự tấn công của địch. Hai trung độ 445, C20 bộ đội huyện và du kích xã dựa vào hào giao thông, ụ chiến đấu để tiêu hao sinh lực địch. Ngày 08/3/1963, địch tăng cường thêm Tiểu đoàn biệt động quân 38, pháo binh và xe M113 càn quét ác liệt tại Long Phước. Đến ngày 01/4/1963 toàn bộ hào giao thông rơi vào tay giặc, các lỗ châu mai bị bịt kín. Cửa chính của địa đạo bị hai xe M113 đè lên. 250 chiến sĩ và nhân dân của ta rút hết xuống địa đạo, với sự chỉ huy của chính trị viên Nguyễn Minh Ninh các chiến sỹ của ta sử dụng quả mìn câm chế lại giao cho đồng chí Mười Dẫm và Sáu Bảo đột phá và đặt vào xích xe M113 rồi điểm hỏa. Khi mìn nổ chiếc xe bị hất tung, quân ta nhanh chóng trườn lên rút chốt trái sang, sử dụng các loại vũ khí ồ ạt tấn công. Trước đoàn bất ngờ, mau lẹ bọn địch không kịp trở tay và phải tháo chạy. Đây là trận chiến đấu lớn thu được nhiều thắng lợi: Tiêu diệt và làm bị thương 143 tên địch, phá hủy 12 xe M113 và đánh bại trận càn quét của địch với lực lượng đông gấp bội có thiết giáp, không quân và pháo binh yểm trợ. Trong suốt hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân và đế quốc, quân và dân Long Phước đã đào được tổng số 3.600 mét địa đạo, trong đó ấp Đông 650 mét, ấp Bắc 2.700 mét, ấp Nam 250 mét. Trải qua bao mưa bom, bão đạn địa đạo và quân dân Long Phước vẫn đứng vững kiên cường, xứng danh vùng đất một thời đạn bom vẫn được xem như “ núm sữa”quan trọng nuôi dưỡng phong trào cách mạng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và xứng đáng với danh hiệu cao quý mà đảng nhà nước ban tặng “ Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Địa đạo Long Phước là nơi ghi dấu truyền thống cách mạng hào hùng, là niềm tự hào, kiêu hãnh của thế hệ mai sau, là nơi thể hiện đường lối chiến tranh nhân dân mưu trí, sáng tạo của quân và dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong hai thời kỳ kháng chiến. Hiện nay địa đạo Long Phước đã được tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho trùng tu, tôn tạo, có phòng trưng bày truyền thống đón du khách trong và ngoài nước đến tham quan và tìm hiểu về lịch sử cách mạng. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
TP Hồ Chí Minh 1017 lượt xem
Di tích khảo cổ Dốc Chùa là di tích cấp Quốc gia xếp hạng năm 2001 (Quyết Định 53/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 28/12/2001), nằm trên bờ sông Đồng Nai, trên đường liên tỉnh lộ Tân Uyên đi Lạc An, thuộc ấp Tân Hòa, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên. Qua những đợt khai quật đã hình thành nhiều bộ sưu tập hiện vật có giá trị lịch sử và khoa học rất lớn. Các công cụ sản xuất bằng đá, gốm, đồng,… đặc biệt một bộ sưu tập gồm 76 khuôn đúc đồng và 68 công cụ vũ khí bằng đồng đã phát hiện trong di tích. Dốc Chùa trở thành một sưu tập hiện vật quan trọng biểu hiện cho một đỉnh cao phát triển của thời tiền sử vùng Đông Nam Bộ. Một di tích đa dạng và phong phú có nhiều yếu tố mới, sự hội tụ về kinh tế, kỹ thuật của xã hội phát triển cao, có niên đại từ 2500 – 3000 năm cách ngày nay. Trong đó, có Tượng Thú được công nhận Bảo vật quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.
TP Hồ Chí Minh 907 lượt xem
Cù Lao Rùa thuộc phường Thạnh Hội, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Xếp hạng di tích quốc gia năm 2009 (Quyết Định số 836/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 03/3/2009). Di tích có niên đại phát triển qua hai giai đoạn (sớm từ 3500 – 3000; muộn từ 3000 – 2700 năm cách ngày nay). Tổng diện tích 277 hecta, độ cao 15m so với mặt bằng khu vực. Đây là một trong những điểm khảo cổ học được phát hiện đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ, qua các cuộc khai quật khảo cổ phát hiện Cù Lao Rùa là khu di tích cư trú - mộ táng, với nhiều công cụ bằng đá, đồ gốm và hàng ngàn mảnh gốm vỡ các loại và nhiều mộ táng. Trải qua hơn 100 năm nghiên cứu, Cù Lao Rùa đã góp phần quan trọng bảo tồn di sản văn hoá thời tiền sử và danh thắng tỉnh Bình Dương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.
TP Hồ Chí Minh 890 lượt xem
Ngôi nhà tọa lạc tại số 21, đường Ngô Tùng Châu, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, trên một khu đất rộng 1.333m2, riêng phần chính (nhà trên) là 323m2, nhà phụ (nhà dưới) chiếm 119m2, được xây cất và hoàn thành vào khoảng năm 1889 – 1892. Ngôi nhà được công nhận di tích cấp Quốc gia ngày 07/01/1993. Nhà quay mặt về hướng Nam, lưng dựa vào ngọn đồi (nơi có trụ sở Ủy ban nhân dân Tỉnh bây giờ), đây cũng là cái thế đắc địa, nói theo các nhà phong thủy xưa. Xét về mặt vị trí địa lý của ngôi nhà cụ Vàng cũng như hai ngôi nhà cổ nữa của cánh họ Trần ở phường Phú Cường đều nằm gần con sông Sài Gòn, rất thuận tiện cho việc chuyên chở cây gỗ từ rừng về. Được biết, nội tổ của cụ Vàng đã từng làm nghề rừng, có trại cưa, xẻ gỗ. Công trình xây dựng theo kiến trúc kiểu chữ đinh nghịch, tức là phần nhà ngang nằm bên trái nhà trên, thay vì nằm bên phải. Đây là nhà chữ đinh có cải tiến, có bộ phận sân con ngăn cách nhà trên và dưới, liên lạc giữa hai bộ phận bằng một nhà cầu nhỏ cắt đôi sân con làm hai phần cửa của nhà dưới trổ ra nơi đầu sân con ấy mà không trổ ra ở đầu hồi, cái cửa này cũng được kiến trúc một cách đặc biệt, mới nhìn giống như một số cổng đền người Hoa, nhưng chủ nhân lại bảo phóng theo kiểu đền của Ấn Độ. Cũng như nhiều nhà khác, nhà cụ Vàng có bộ khung sườn làm theo kiểu nhà xuyên trính, nhưng có đến 8 đấm, 8 quyết ở hai chái nhà. Bộ trính, trổng, cối đều được đẻo gọt khéo léo, trính uốn xong có tạo gờ, các đoạn kèo được chạm tỉ mỉ, công phu, hàng lá dung thẳng tắp ở hàng cột thứ ba. Toàn phần nhà trên đếm được 48 cây cột tròn, tất cả đều đứng xa vách. Phần trang trí bên trong ngôi nhà là phần làm cho du khách thích thú nhất, đó là sự chạm khắc công phu, từ chân cột đến mái nhà, bàn ghế tủ ghế, trang thờ các khung cửa các ô lồng… hoành phi, liễn, đối, những bức tranh tứ bình, những tấm thủ quyển… tất cả đều chạm trổ, sơn thếp cẩn xà cừ công phu khéo léo, làm cho ngôi nhà tráng lệ mà trang nghiêm. Nhìn chung, những mô típ chạm khắc ở đây thường mang tính ước lệ, tượng trưng, trong đó thể hiện ước muốn một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, và một nết sống nhân nghĩa, đạo đức… Những đường nét chú trọng sự uyển chuyển, mềm mại. Các hình ảnh chạm khắc gồm cây cỏ, hoa lá, chim thú, vật dụng, những đường hình học. Riêng tấm thủ quyển treo ở bàn thờ bên phải từ trong nhìn ra chạm hình Tùng Lộc, Mã Dương có kèm theo hai câu thơ chữ Hán tạo được cái vẻ thanh thoát, nhã đạm, tiêu sái. Phân bố mặt bằng của ngôi nhà,Trước hết là nhà trên, nhà có 5 gian hai chái, phần thờ phụng, tiếp khách, các buồng để ở và chứa đồ đạc của cải được ngăn chia rạch ròi. Phần thờ phụng chiếm ba gian dựa theo nguyên tắc gian bên trái thờ cha mẹ của chủ nhà, bên phải thờ ông bà, bàn thờ giữa thờ ông bà cao hơn gọi chung là gia tiên. Mỗi bàn thờ gồm tủ thờ cẩn xà cừ, bên trên là đồ ngũ sự, bên trong là bài vị hoặc chân dung người quá cố, sát vách lụa là bức thờ, trên có bài châm, câu đối, đầu bức thờ có phần Mi chạm “Lưỡng long tranh châu” và tấm thủ quyển. Hai gian hai bên là phòng ngủ của vợ chồng chủ nhân, phía sau vách thờ là dãy buồng chứa đựng đồ đạc... Trên các bàn thờ là những trang thờ có đặt các bài vị, đề quan thánh đế quân, thổ công, đông trù, tư mệnh, phước đức thánh thần, tài thần. Phần dành để tiếp khách gồm hai lòng căn (tức từ hàng cột thứ hai đến hàng cột thứ tư), nơi đây có đặt bàn ghế để tiếp khách, bao gồm ở gian giữa làm một bàn tròn lớn, mặt bàn lót đá cẩm thạch, trên bàn đặt giá Bát bửu (tám món binh khí cổ), chung quanh bàn có đặt ghế với chạm trổ tinh vi và giàu ý nghĩa tượng trưng. Hai bên bàn tròn ấy là những bàn hình chữ nhật đóng theo kiểu ghế chân nghi. Ở gian đầu là hai bàn hình hộp xoài, chung quanh đặt ghế kiểu hiện đại, tất cả các bàn ghế đều bằng gỗ. Dọc theo vách ngăn giữa phần tiếp khách và phần thờ có đặt những bàn nhỏ hình vuông bên trên có những đĩa trái cây bằng sứ, cũng nơi đây chủ nhân cho đặt một tấm Phả đồ nêu khái quát thế thứ của những người trong họ. Ở hai đầu chái nhà cũng có đặt bàn, bên trái trên bàn thờ để ảnh chủ nhân, có cặp đôi hai bên, bộ tranh tứ bình cở nhỏ, cặp câu đối và tranh tứ bình. Đặc biệt, trước của buồng ngủ đặt một cái tủ kiếng, bên trong chứa nhiều món quý như tiền cổ, nón quai thao, đồ cho cô dâu khi về nhà chồng, theo kiểu xưa… Nhà dưới là một căn nhà ngang, cất theo lối xuyên trính nhưng đơn giản hơn nhà trên. Nhà ngang dùng để tiếp khách bình thường, là nơi sinh hoạt gia đình, nhà ăn, nhà bếp,… phía trước nhà ngang là nhà xe hướng cửa ra cổng. Sân trước trồng nhiều chậu hoa kiểng, cây kiểng… tôn thêm nét đẹp cổ kính của ngôi nhà. Nhà cụ Vàng vừa mang tính nghệ thuật – nhân văn đậm nét văn hóa truyền thống Việt Nam; đồng thời, khẳng định kỹ thuật điêu khắc, chạm trổ đã có truyền thống lâu đời ở Bình Dương. Các hiện vật trang trí và đồ dùng trong nhà còn nhiều và hầu hết là cổ vật. Toàn bộ kiến trúc ngôi nhà và hiện vật bên trong, cho ta thấy được nét sinh hoạt của gia đình thuộc tầng lớp giàu có ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, thể hiện sự phát triển về đời sống của cư dân người Việt trên đất Bình Dương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.
TP Hồ Chí Minh 925 lượt xem
Lịch sử hình thành Chợ Bến Thành gắn liền với thăng trầm của đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn. Chợ được khởi công xây dựng từ năm 1912, trải qua nhiều lần trùng tu, di dời mới có được diện mạo và vị thế hôm nay. Ban đầu, chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé, nơi có một bến sông để quân lính và người dân ra vào thành Gia Định (Quy Thành, thành Bát Quái), vì thế nên gọi là Chợ Bến Thành. Sau cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1833-1835), thành Gia Định bị phá bỏ, Chợ Bến Thành cũng hoang vắng. Sau khi người Pháp tấn công Sài Gòn (tháng 2-1859), chợ bị thiêu rụi hoàn toàn. Năm 1860, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành ở địa điểm cũ. Sau nhiều lần trùng tu, ngôi chợ dần khang trang hơn với hệ thống cột gạch, sườn sắt, mái ngói, .. Đến đầu thế kỷ XX, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành mới tại vị trí ngày nay trong khoảng thời gian 1912-1914, cửa nam có gắn chiếc đồng hồ mang tính biểu tượng. Phía trước cửa chính (cửa nam) là Bùng binh Chợ Bến Thành, còn gọi là Công trường Diên Hồng, Quảng trường Quách Thị Trang... Đến năm 1952, khi tu sửa chợ người ta cho gắn 12 bức phù điêu của xưởng mỹ nghệ Biên Hòa ở bốn cửa chợ. Từ đó đến nay hình ảnh Chợ Bến Thành trở nên quen thuộc, gần gũi, trở thành một miền ký ức văn hóa đô thị của thành phố. Nguồn: Báo điện tử Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 2774 lượt xem
Hồ Con Rùa ở trung tâm TP HCM có tên chính thức là Công trường Quốc tế, là nút giao của các tuyến đường Phạm Ngọc Thạch, Trần Cao Vân và Võ Văn Tần. Xung quanh hồ tập trung rất nhiều nhà hàng, quán bar, cà phê nên khu vực này luôn nhộn nhịp từ sáng đến khuya. Nguyên thủy vị trí Hồ Con Rùa vào năm 1790 là cổng thành Khảm Khuyết của thành Bát Quái (còn gọi là thành Quy) được xây theo lệnh vua Gia Long. Tuy nhiên, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (1833-1835), vua Minh Mạng đã cho phá thành Bát Quái và xây một ngôi thành nhỏ hơn mang tên là thành Phụng (thành Gia Định). Vị trí cửa Khảm Khuyết trở thành một điểm ở ngoài thành và nối thẳng con đường ngoài mặt tây thành xuống bến sông (đường số 16 - Catinat và bây giờ là Đồng Khởi). Sau khi chiếm được Sài Gòn năm 1859, người Pháp đã cho phá hủy toàn bộ thành Gia Định. Năm 1878, một tháp nước được xây tại vị trí Hồ Con Rùa ngày nay để phục vụ nhu cầu cung cấp nước uống cho cư dân trong vùng. Đến năm 1921, tháp nước bị phá bỏ và con đường được mở rộng nối dài đến đường Mayer (nay là đường Võ Thị Sáu). Từ đó, vị trí này trở thành giao lộ của các tuyến đường như ngày nay. Cũng tại vị trí này, người Pháp cho xây một tượng đài ba binh sĩ bằng đồng với hồ nước nhỏ, để đánh dấu cuộc xâm chiếm và biểu tượng của người Pháp làm chủ Đông Dương. Do đó, người dân thường gọi nó là Công trường Ba hình. Các tượng đài này tồn tại đến năm 1956 thì bị Chính quyền Việt Nam Cộng hòa phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước nhỏ. Giao lộ cũng được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ. Sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, địa điểm Công trường Chiến sĩ trở thành vòng xoay giao thông của đường Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch) và Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần - Trần Cao Vân). Thời điểm xây Hồ Con Rùa chưa được xác định chính xác, song một số tài liệu cho là nó được xây năm 1965-1967. Người thiết kế là kiến trúc sư Nguyễn Kỳ. Trong những năm 1970 đến 1974, Hồ Con Rùa được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trùng tu và chỉnh trang. Trong đó có việc dựng thêm và điều chỉnh 5 cột bêtông cao có dạng năm bàn tay xòe ra giống như các cánh hoa đón đỡ một nhụy hoa. Công trình mới này còn bao gồm một vòng xoay giao thông với đường kính khoảng gần 100 mét, được trang trí bởi cây xanh và hồ phun nước hình bát giác lớn với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm và hình tượng con rùa bằng hợp kim đội trên lưng bia đá lớn. Do đó, mới có tên gọi dân gian là Hồ Con Rùa. Ban đầu, khu giao lộ này được đặt tên là Công trường Chiến sĩ Tự do, đến năm 1972 thì đổi tên thành Công trường Quốc tế. Tuy nhiên, đầu năm 1976, tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ, dù con rùa không còn nhưng người dân vẫn quen cách gọi cũ thay vì tên chính thức. Do có kiến trúc khá kỳ lạ, Hồ Con Rùa được gắn với giai thoại trấn yểm long mạch của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu. Theo lời thuật của tác giả Huỳnh Bá Thành trong cuốn sách Vụ án Hồ Con Rùa (Nhà xuất bản Tuổi Trẻ 1982), có giai thoại truyền miệng kể là vào năm 1967 khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, đã cho mời một thầy phong thủy người Hoa nổi tiếng đến coi thế đất tại dinh Độc Lập. Ông thầy phong thủy này khen dinh được xây trên long mạch. Con rồng này có đầu nằm ngay dinh Độc Lập (vì vậy Dinh Độc lập còn có tên gọi là Phủ Đầu Rồng) và đuôi rồng nằm tại vị trí Công trường Chiến sĩ. Tuy phát hưng vượng nhưng do đuôi rồng hay vùng vẫy nên sự nghiệp không bền, cần phải cúng yểm bùa bằng cách đúc một con rùa lớn để trấn đuôi rồng không vùng vẫy, mới giữ được ngôi vị tổng thống lâu dài. Vì vậy, ông Nguyễn Văn Thiệu đã nghe theo và cho xây dựng một hồ nước có hình bát giác, phỏng theo bát quái trận đồ, một biểu tượng phong thủy thường dùng để trấn yểm của người xưa, và cho đặt một con rùa lớn đúc bằng đồng ngay chính giữa hồ. Cũng vì thế, nhiều người cho rằng kiến trúc tháp cao giống như hình một thanh gươm hoặc một cây đinh khổng lồ đóng xuống hồ nước để giữ chặt đuôi rồng, và khuôn viên hồ nước có hình bát quái, bên giữa có hình âm dương. Nguồn: Báo tiếng Việt
TP Hồ Chí Minh 2583 lượt xem
Trại giam Chí Hòa, còn gọi là Khám Chí Hòa, nằm tại quận 10, TP HCM, là nhà tù được người Pháp xây dựng từ năm 1943 nhằm thay thế Khám Lớn Sài Gòn ở góc đường Lý Tự Trọng - Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Công trình được cho là do người Nhật khởi xướng sau khi đảo chính Pháp để giam tù nhân, tuy nhiên khi thi công chưa hoàn thành, họ đã rút khỏi Việt Nam. Sau đó, người Pháp tiếp tục công việc bỏ dở. Hầu như toàn bộ vật liệu như xi măng, sắt, thép đều chở từ Pháp sang. Ngày 8/3/1953, khi Khám Chí Hòa xây dựng hoàn chỉnh, Khám Lớn Sài Gòn bị phá bỏ. Ngoài một số tù nhân được phóng thích, còn lại khoảng 1.600 người cùng chiếc máy chém chuyển về Khám Chí Hòa. Với diện tích 7 hecta, Khám Chí Hòa cao 3 tầng lầu, 238 phòng. Trong đó có hai dãy nhà dành cho phạm nhân nữ. Nơi đây từng giam tù chính trị chống lại thực dân Pháp, chống chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Ngày nay, nơi này được Công an TP HCM dành cho các bị can trong các vụ án trên địa bàn. Khám Chí Hòa do một kiến trúc sư người Nhật thiết kế và xây dựng theo thuyết ngũ hành, bát quái được đánh giá là một công trình kiến trúc đặc biệt. Vừa hòa hợp những đặc trưng cơ bản của kiến trúc Pháp: kiên cố, kín đáo, mát mẻ, vừa mang nét huyền bí âm dương ngũ hành của phương Đông. Khám có hình bát giác với 8 cạnh đều nhau, 8 góc tượng trưng cho 8 quẻ: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Cẩn, Khảm, Đoài, Ly trong Kinh Dịch. Khám có 8 khu giam phạm nhân, xây hình bát giác vuông. Một vài tài liệu nghiên cứu lại cho rằng, Khám Chí Hòa được xây dựng dựa trên bát quái trận đồ của Khổng Minh Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. 8 quẻ tương ứng với 8 cửa trận là: Hưu - Sinh - Thương - Đỗ - Cảnh - Tử - Kinh - Khai. Mỗi cạnh của bát quái trận đồ là một khu, lưng xây bịt kín ở phía ngoài còn phía trong toàn song sắt và mỗi khu có 4 buồng giam. Chí Hòa chỉ có một cửa vào nên người ta gọi đó là "cửa tử". Qua cửa này là hệ thống đường hầm thiết kế theo cung vị nếu không được hướng dẫn, người đi vào sẽ bị mất phương hướng, giống như lọt vào một mê cung, không thể tự tìm đường ra được. Giữa Khám Chí Hòa là khoảng sân rộng cũng hình bát giác chia thành 8 khu tam giác nhỏ, với rất nhiều cây, bãi cỏ sạch sẽ và thoáng mát. Ở giữa là một vọng gác cao hơn 20 m, trên có bể chứa nước phình to như một cây kiếm cắm thẳng xuống. Đứng tại đây, lính canh có thể dễ dàng quan sát tất cả các phòng giam. Với kiến trúc trận đồ bát quái của Chí Hòa, phạm nhân khi đã vào đây thì khó mà vượt ngục. Lịch sử cho đến nay chỉ có 3 lần vượt ngục thành công. Trường hợp thứ nhất là các chiến sĩ cách mạng vào thời điểm Nhật đảo chính Pháp năm 1945, thứ 2 là tướng cướp Điền Khắc Kim vào năm 1972 và người thứ ba là tử tù khét tiếng Phước "Tám Ngón" năm 1995. Từ lâu, Khám Chí Hòa đã gắn với những giai thoại kỳ bí. Người ta đồn rằng, vọng gác chính giữa khám chính là thanh kiếm trấn. Những tên tội phạm dù có xảo quyệt đến đâu thì khi ở đây mọi thủ đoạn của chúng cũng bị thanh kiếm "linh" này hoá giải. Thanh kiếm này chính là "trái tim" của của toà nhà, nếu nó bị nhổ lên thì toàn bộ "trận đồ" sẽ tự vỡ. Một câu chuyện ly kỳ khác vẫn được người ta truyền miệng là do có nhiều người chết trong Khám Chí Hòa nên âm khí ở đây rất nặng nề. Vì thế, trời thường xuyên làm sấm sét đánh bể một góc để khai một cửa Sanh, cho oán khí được thoát ra, người chết được siêu thoát. Từng có thông tin cho rằng, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã rước một thầy địa lý rất cao tay về nhằm hoá giải một phần "trận đồ" này. Thực tế, một trong 8 nóc nhà của hình bát giác đã được san bằng, phá vỡ tính hoàn hảo của "bát quái", thuận theo thiên ý mở một cửa Sanh cho các linh hồn được bay đi. Trong khi đó, một số nhà khoa học thì cho rằng bên dưới của tòa nhà có thể là mỏ quặng khiến sét hay đánh trúng Khám Chí Hòa. Trong khuôn viên Khám Chí Hòa còn có một nhà thờ (ngày nay được sử dụng làm Hội trường của Trại) được Pháp xây dựng làm nơi "rửa tội" cho những tù nhân trước khi bị xử tử. Ngoài ra, để giải thoát "âm khí", năm 1954, cai ngục Khám Chí Hòa cho xây bên ngoài "bát quái trận" (nhưng vẫn nằm trong khuôn viên khám) ngôi chùa đặt tượng Phật. Sau này ngôi chùa không còn, bức tượng Phật hiện nằm trên một hồ nước nhỏ. Nguồn: Báo tiếng Việt
TP Hồ Chí Minh 3489 lượt xem
Bệnh viện Chợ Quán (nay là Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới) là bệnh viện xưa nhất ở Sài Gòn được xây dựng xong năm 1864. Bệnh viện chuyên điều trị các loại bệnh truyền nhiễm và bệnh tâm thần. Do nhu cầu điều trị bệnh tâm thần nên trong bệnh viện có xây một khu riêng biệt để nhốt các bệnh nhân tâm thần. Khu nhốt bệnh nhân đó nay đã trở thành một di tích lịch sử văn hóa. Trong quá trình xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã bắt bớ, tra tấn dã man đến lâm bệnh nhiều chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước. Vì cần khai thác tin tức, nên chúng đưa tù nhân vào khu nhà nhốt bệnh nhân tâm thần của bệnh viện Chợ Quán để vừa điều trị cầm chừng vừa tiếp tục tra hỏi. Từ đó, khu nhà nhốt bệnh nhân tâm thần trở thành nơi giam giữ nững người tù bị bệnh. Năm 1931, đồng chí Trần Phú – Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương nay là Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị thực dân Pháp giam giữ và trút hơi thở cuối cùng tại nơi đây. Ngày 18/4/1931, đồng chí Trần Phú đã bị bắt tại nhà số 66 đường Champagne (nay là đường Lý Chính Thắng) – cơ quan ấn loát của Đảng . Sau khi giam giữ và dùng nhiều cực hình tra tấn dã man đồng chí Trần Phú ở nhiều trại giam khác nhau, chúng chuyển đồng chí về Khám Lớn Sài Gòn để chuẩn bị xét xử. Lúc này, sức khỏe của đồng chí Trần Phú đã ngày càng suy kiệt. Thực dân Pháp muốn duy trì sự sống của đồng chí để khai thác những bí mật của Đảng, nên ngày 26/8/1931, chúng đưa đồng chí đến trại giam trong bệnh viện Chợ Quán để điều trị bệnh. Ngày 6/9/1931, đồng chí Trần Phú chút hơi thở cuối cùng tại đây. Thi hài của đồng chí được đặt ở phòng cá nhân. Các đồng chí trong trại giam đã làm lễ truy điệu đồng chí ở phòng này. Toàn thể tù chính trị trong trại giam đã đứng dọc theo hành lang để tiễn đưa đồng chí Trần Phú – người Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng. Ngoài đồng chí Trần Phú, trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhiều chiến sĩ cách mạng khác như Trần Não, Hà Huy Tập, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Văn Trỗi cũng đã từng bị giam giữ ở khu trại giam này. Ngày nay, khu trại giam trong bệnh viện Chợ Quán được mở cửa để đón khách tham quan. Di tích vẫn còn in đậm dấu vết của gông cùm, xiềng xích dưới chế độ thực dân; cũng như những dấu ấn về cuộc chiến đấu kiên cường bất khuất của các chiến sĩ cách mạng với những khẩu hiệu đấu tranh bằng máu còn rõ nét trên các bức tường. Từ cổng bệnh viện đi vào khu trại giam, ở phía bên phải, mặt bằng kiến trúc của khu trại giam hình chữ U. Dãy ngang của hình chữ U dài 32m, rộng 12m. Hai dãy dọc bằng nhau, mỗi dãy dài 14m, rộng 7,5m. bên ngoài phía trước cửa trại giam có phòng gác nhỏ, lợp ngói móc. Xung quanh có tường gạch cao 2,5m bao bọc. Từ cửa trại giam đi vào, đầu tiên là phòng giam lớn, giam khoảng 20 người. Kế đến là 2 phòng giam lớn và 2 phòng giam nhỏ. Giữa lối đi có xây thêm một bức tường từ cửa ra vào đến cuối dãy nhà ngăn cách các phòng giam bên trái và bên phải. Bên trái cửa trại giam, cách 10,5m là 2 phòng giam bằng nhau, bề ngang mỗi phòng 10,75m. gần cuối dãy có 2 phòng giam cá nhân nhỏ, trên nóc phòng có giăng lưới sắt. Cuối dãy có 3 phòng vệ sinh nhỏ. Nhìn chung, khu trại giam trong bệnh viện Chợ Quán là một di tích lịch sử khá nguyên vẹn. Những năm gần đây, quận 5 đã đầu tư gần 700 triệu đồng để trùng tu giai đoạn một di tích, làm một trong những địa điểm sinh hoạt chính trị, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Sau khi khánh thành, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh quận 5 chịu trách nhiệm quản lý và giới thiệu, hướng dẫn khách đến tham quan di tích . Di tích có tác dụng giáo dục rất lớn đối với thế hệ trẻ, từ tấm gương sáng chói của đồng chí Trần Phú về lòng dũng cảm, tinh thần kiên định cách mạng và tình thương nhân ái đối với đồng chí, đồng đội. Di tích này sẽ mãi mãi nhắc nhở thế hệ sau lời di huấn của đồng chí Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng: “Hãy giữ vững ý chí chiến đấu”. Khu trại giam trong bệnh viện Chợ Quán đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử ngày 16/11/1988. Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân Quận 5 Thành Phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 2447 lượt xem
Đình Phú Cường tọa lạc ở phường Phú Thọ, TP Thủ Dầu Một, là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh được xếp hạng ngày 02/06/2004. Đình Phú Cường còn gọi là Đình Bà Lụa được xây dựng vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, khá nổi tiếng về quy mô và kiến trúc độc đáo. Chánh điện được xây dựng trên một nền cao, kiến trúc theo kiểu truyền thống xưa với ba gian nhà liền mái theo kiểu chữ Tam; kèo, cột, xuyên, trính, đều được đúc bằng xi măng. Gian trong cùng của Chánh điện gọi là Chánh tẩm hay Hậu cung để thờ vị Chánh thần, tức thần Thành Hoàng. Hai bên là khám thờ tả bang, hữu bang. Đối diện với bàn thờ thần là hương án. Ở gian chính còn có những tấm hoành phi, câu đối tạo sự trang nghiêm cho nơi thờ phụng. Gian giữa là gian tiền tế, để lễ vật lên cúng thần và là nơi vị đọc chúc sẽ đọc văn tế trong dịp tế lễ… Gian tiền tế còn có cặp đài bằng gỗ chạm hình tứ linh do ông Phó Tổng Bình Điền cúng vào năm Giáp Thìn (1904). Gian ngoài cùng gọi là Hội đồng ngoại có am thờ Tiền hiền, Hậu hiền. Hai bên Chánh điện có Đông lang dành cho bá tánh nam nữ hội họp và khu nhà kho. Trước sân đình là bình phong long hổ, bàn thờ thần Nông. Hai bên thờ tả hộ vệ, hữu hộ vệ. Nơi đây còn lưu giữ rất nhiều binh khí cổ, đồ gỗ đẹp và quý hiếm. Hằng năm, đình có hai kỳ tế lễ: Lễ Kỳ Yên (Rằm tháng Giêng) và Lễ Thu Tế (mùng 1 tháng 10 Âm lịch) thu hút rất đông du khách đến tham gia lễ hội. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương
TP Hồ Chí Minh 2479 lượt xem
Vùng bưng 6 xã huyện Thủ Đức là vùng đất ven Thành phố Sài Gòn, có hệ thống giao thông đường thủy và đường bộ quan trọng, kết nối Thành phố Sài Gòn với Thủ Đức và các vùng xung quanh. Nơi đây có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, xây dựng căn cứ địa cách mạng tại vùng bưng sẽ nối liền với căn cứ địa của các huyện vùng ven Thành phố Sài Gòn, từ các nơi này lực lượng ta có thể bất ngờ tiến công vào trung tâm đầu não của quân đội thực dân và đế quốc. Tháng 10 năm 1946, Tỉnh ủy Gia Định chỉ đạo thành lập huyện ủy lâm thời huyện Thủ Đức do đồng chí Dương Văn Sửu làm Bí thư. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy đề ra nhiệm vụ và phương hướng hoạt động của huyện là đẩy mạnh trừ gian, diệt ác, mở rộng hoạt động xuống vùng bưng, xây dựng chính quyền, mặt trận đoàn thể ở các xã vùng bưng. Tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng căn cứ Khu B và căn cứ khu C của huyện tại vùng bưng, thành lập Mặt trận Việt Minh và chính quyền các xã Long Phước, Phú Hữu, Tam Đa, Phước Trường. Căn cứ khu B là Long Phước thôn được thành lập năm 1947. Căn cứ khu C (tiền thân của Căn cứ Vùng bưng 6 xã được thành lập vào cuối năm 1947 đầu năm 1948 khi mới thành lập chỉ có 3 xã là Tam Đa, Phước Trường, Ích Thạnh, sau đó được mở rộng thêm là xã Phú Hữu và đến khi hoàn chỉnh thì bao gồm 8 xã là Tam Đa, Phước Trường, Ích Thạnh, Phú Hữu, Phước Long, Tăng Nhơn Phú, Bình Trưng, An Phú. Sau này 3 xã Tam Đa, Phước Trường, Ích Thạnh sáp nhập thành xã Long Trường do vậy còn lại 6 xã: Long trường, Phú Hữu, Phước Long, Tăng Nhơn Phú, Bình Trưng, An Phú được gọi là Căn cứ Vùng Bưng 6 xã. Căn cứ Vùng bưng 6 xã là địa bàn cơ động chiến lược vô cùng quan trọng của các lực lượng vũ trang từ xã, huyện đến tỉnh, quân khu và miền để uy hiếp và đánh vào cơ quan đầu não địch một cách táo bạo nhất, bất ngờ nhất, trong thời gian nhanh nhất, với khoảng cách ngắn nhất (cách trung tâm thành phố chỉ 5 km theo đường chim bay) đặc biệt là nơi xuất phát của lực lượng vũ trang tiến công vào Thành phố Sài Gòn trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 và đại thắng mùa xuân 1975. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, các lực lượng vũ trang và Nhân dân Vùng bưng 6 xã đã đoàn kết một lòng, vượt qua mọi gian khổ hy sinh, kiên cường bám trụ xây dựng căn cứ, bảo vệ an toàn căn cứ và chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Với những giá trị tiêu biểu về mặt lịch sử nêu trên, ngày 10/10/2008 Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã công nhận căn cứ Vùng bưng 6 xã là di tích lịch sử. Hiện nay, nhà truyền thống căn cứ Vùng bưng 6 xã trưng bày các hình ảnh, hiện vật và tài liệu nhằm giới thiệu truyền thống đấu tranh cách mạng của quân và dân Vùng bưng sáu xã trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Được đưa vào hoạt động từ tháng 8 năm 2011, đã thu hút hàng nghìn lượt khách đến tham quan và học tập mỗi năm. Nhà truyền thống di tích lịch sử – văn hóa căn cứ Vùng bưng 6 xã tọa lạc trên đường Lã Xuân Oai, khu phố Phước Hiệp, phường Long Trường, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh). Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa Tp Thủ Đức
TP Hồ Chí Minh 4013 lượt xem
Nhà lưu niệm và tượng đài anh hùng Võ Thị Sáu nằm ở ngã tư Đất Đỏ, thuộc xã Phước Long Thọ - Huyện Đất Đỏ. Ngôi nhà vách gỗ, mái ngói cổ xưa nơi mà chị đã từng sống thời niên thiếu cùng gia đình có các kỷ vật, vật dụng đơn sơ, có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ chị đặt ở gian ngoài. Năm 1980 ngôi nhà được ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ tu bổ lại khang trang như ngày nay. Võ Thị Sáu là một nữ du kích trong Chiến tranh Việt-Pháp ở Việt Nam, người nhiều lần thực hiện các cuộc mưu sát nhắm vào các sĩ quan Pháp và những người Việt cộng tác với chính quyền thực dân Pháp tại miền Nam Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem cô như một biểu tượng Liệt nữ Anh hùng tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp và đã truy tặng cho cô danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1993. Võ Thị Sáu sinh năm 1933, là con ông Võ Văn Hợi và bà Nguyễn Thị Đậu. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chị sinh ra trong một gia đình nghèo, cha làm nghề đánh xe ngựa chở khách thuê đi Long Điền, Phước Hải, mẹ buôn bán bún bì chả tại chợ Đất Đỏ, từ nhỏ, chị phải phụ giúp cha mẹ để sinh kế. Sau khi quân Pháp tái chiếm vùng Đất Đỏ, cuối năm 1945, các anh trai của chị Sáu đã thoát li gia đình, hoạt động kháng chiến cho phong trào Việt Minh. Chị đã bỏ dở việc học, ở nhà giúp mẹ cha kiếm sống và bí mật tiếp tế cho các anh, vốn công tác trong Chi đội Giải phóng quân của tỉnh Bà Rịa. Năm 1946, chị theo anh trai là Võ Văn Me vào khu kháng chiến, và trở thành liên lạc viên của Đội Công an xung phong Đất uân Pháp; đặc biệt là trận tập kích bằng lựu đạn tại lễ kỉ niệm Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7 năm 1949 tại Đất Đỏ, gây được tiếng vang lớn ở vùng Đất Đỏ. Năm 1947, chị chính thức trở thành đội viên Công an xung phong Đất Đỏ khi mới 14 tuổi. Từ đó, chị tham gia nhiều trận tập kích bằng lựu đạn, ám sát các sĩ quan người Pháp và Việt gian cộng tác với Thực dân Pháp tạo được tiếng vang và sự ủng hộ của quần chúng nhân dân trong vùng. Vào tháng 12 năm 1949, trong một chuyến công tác tại Đất Đỏ, chị Võ Thị Sáu đã bị quân Pháp bắt được. Một số tài liệu khác ghi cô bị bắt vào tháng 2 năm 1950, sau khi chị và đồng đội dùng lựu đạn tập kích giết chết Cả Suốt và Cả Đay, là hương chức người Việt cộng tác đắc lực với quân Pháp, ở ngay phiên chợ Tết Canh Dần tại chợ Đất Đỏ. Trong ngục giam những người bị án tử hình, Chị vẫn hồn nhiên, vui tươi, tin tưởng vào ngày chiến thắng của Tổ Quốc. Dù các luật sư biện hộ cho chị đã phản ánh với lý do chưa đủ 18 tuổi nhưng thực dân Pháp vẫn ngoan cố tuyên án tử hình. Trước khi bị đưa ra thi hành án, Chị bị đày qua các nhà tù Chí Hòa, Bà Rịa và Côn Đảo. Vì quân Pháp không dám công khai thi hành bản án đối với Chị, chúng đã lén lút đem cô đi thủ tiêu. Chuyện vẫn kể rằng, khi nhóm đao phủ bảo chị quỳ xuống, Chị đã quát lại bọn chúng với một câu đã đi vào huyền thoại, Tao chỉ biết đứng, không biết quỳ. Chị bị xử bắn năm 1952 tại Côn Đảo khi chưa đủ 18 tuổi. Cách đó chừng 100m là công viên tượng đài và đền thờ anh hùng Võ Thị Sáu. Tượng chị được đặt ở đó, một nơi thoáng mát, bốn mùa ngát hương với hoa sứ, hoa ngọc lan, hoa lekima. Một nơi đẹp , yên bình và tĩnh lặng. Tượng được đúc bằng đồng, cao 7m, tạo theo thế chị Sáu ung dung ra pháp trường, tà áo vẫn tung bay trong gió. Một con người hiên ngang, bất khuất, kiên cường, và không bao giờ đầu hàng trước gian khó, hiểm nguy. Đền thờ là nơi cho dân chúng đến phúng viếng, tưởng niệm anh hùng và là nơi trưng bày hiện vật, giới thiệu hình ảnh về cuộc đời hoạt động của anh hùng liệt sỹ Võ Thị Sáu cùng một số hình ảnh về quê hương Đất Đỏ. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
TP Hồ Chí Minh 4468 lượt xem
Hầm chứa vũ khí đánh Dinh Độc Lập là một trong những cơ sở của biệt động thành nhằm chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đây là căn nhà phố nằm trong một dãy có cùng cấu trúc mặt tiền, cửa sắt kéo. Chủ hộ là thầu khoán Trần Văn Lai (còn gọi là Năm Lai) sử dụng nhà vừa để xe ô-tô, vừa chứa vật liệu xây dựng. Căn nhà nằm gần đầu hẻm Trần Quí Cáp (ngày nay là ngõ Võ Văn Tần). Căn hộ được mua vào đầu năm 1967 theo sự thống nhất với người chỉ huy đơn vị của anh Năm Lai: ông Nguyễn Văn Trí, chính trị viên đơn vị Bảo Đảm thuộc Quân Khu Sài Gòn - Gia Định. Anh Năm Lai là cán bộ của đơn vị này, mua nhà xong Năm Lai bắt tay sửa chữa. Khoác lớp áo bên ngoài là thầu khoán mang tên Năm U - SOM (anh Năm thường vào cơ quan U - SOM của Mỹ để đấu thầu). Trong khi sửa chữa nhà anh bí mật thực hiện 1 kế hoạch của đơn vị giao: xây dựng hầm bí mật. Vì thế dưới nền nhà, bên trong buồng có hai hầm cạnh nhau. Mỗi hầm có đường cống lớn, vừa người chui, thông ra phía sau nhà. Hầm chứa vũ khí có kích thước dài 2m, ngang 1,2m, cao 2,5m; vách và nền hầm tô xi măng dầy để chống thấm. Riêng miệng hầm đích thân anh Năm tự tay lắp đặt. Nắp có chốt vặn. Dùng khoen đính chốt nhấc bổng nắp lên là có khoảng trống vừa một người chui xuống. Giữa năm 1967, hầm hoàn thành, được thông báo đến đơn vị Bảo Đảm (mang bí số J9 T - 700). Chỉ huy đơn vị sau khi thanh sát ra lệnh tiếp tục triển khai kế hoạch. Để chở một số lượng lớn, nhiều chủng loại vũ khí (súng ngắn, súng, đạn AK, B40, bộc phá... về địa điểm hầm bí mật cất dấu. Ngày 29 Tết Mậu Thân, tại xã Lộc Thuận, huyện Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh) đội 5 biệt động thực tập chuẩn bị cho cuộc tiến công. Sáng mùng 1 Tết, theo dòng người vui Xuân, các chiến sĩ đội 5 biệt động lần lượt dùng nhiều phương tiện đến tập hợp tại căn nhà trên đường Hoàng Đạo (nay là Trần Văn Đang), phường 11, quận 3. Chủ hộ cũng là một chiến sĩ biệt động tên Lê Tấn Quốc (bí danh Bảy Rau Muống). Lúc này toàn đội 5 biệt động 15 chiến sĩ trong đó có một nữ bí danh Chín Nghĩa, do Trương Hoàng Thanh chỉ huy. Đến 22 giờ đêm, theo kế hoạch, toàn đội 5 biệt động chuyển đến nhà Năm Lai trên 2 xe ô-tô của Lê Tấn Quốc. Hai ô-tô đậu trên đường Trần Quí Cáp, các chiến sĩ đội 5 xuống xe, vào nhà Năm Lai theo hai cửa trước và sau. Sau đó, theo sự chỉ huy của Ba Thanh, vài đội viên xuống hầm mang vũ khí, súng AK, lựu đạn và bộc phá lên, kiểm tra rồi đưa lên xe ô-tô đậu trong nhà. Lúc 1 giờ 30 sáng mùng 2 Tết, ta di chuyển đến gần dinh Độc Lập ở phía đường Nguyễn Du, lính gác địch phát hiện bắt dừng lại. Đoàn xe cứ tiến, chúng la lên báo động. Các chiến sĩ đi trên xe đầu tiên nổ súng diệt mấy tên này và dùng bộc phá để phá cổng cho xe chứa chất nổ lao vào, tiếc rằng bộc phá không nổ do trục trặc kỹ thuật. Tuy vậy tổ đột phá đã lọt vào được bên trong. Địch bắn xối xả, hai chiến sĩ hy sinh, số còn lại phải tạm lui, hai người bị thương. Địch từ các phía bên trong ập tới bịt kín các cổng. Đến 4 giờ sáng, thêm đội trưởng Trương Hoàng Thanh hy sinh. Gần sáng, điểm lại còn 8 người, anh em rút vào nhà số 56 Thủ Khoa Huân và tổ chức cố thủ trên lầu 3. Đói, mệt giữa vòng vây giặc, 8 chiến sĩ ngoan cường chiến đấu suốt cả ngày 31 tháng 1 năm 1968 tức mùng 2 Tết. Anh em chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, tháo súng, vứt bỏ, lại dùng gạch đá, gỗ chặn địch. Đồng chí Lê Tấn Quốc (Bảy Rau Muống) với khẩu AK làm nhiệm vụ chốt chặn ở cầu thang đã anh dũng hy sinh. (Liệt sĩ Lê Tấn Quốc được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang). Sau trận tấn công vào Dinh Độc lập của biệt động Sài Gòn khiến kẻ thù run sợ, chúng tịch thu toàn bộ tài sản, truy lùng và treo giải thưởng 2 triệu đồng cho đầu của Trần Văn Lai. Toàn bộ gia đình ông phải rút ra khỏi Sài Gòn nhưng bản thân ông vẫn tiếp tục hoạt động và chỉ thị các cơ sở còn lại của Biệt động Thành tiếp tục củng cố và xây dựng lực lượng. Năm 1972 ông bị địch bắt và giam ở nhà tù chi khu Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) song chúng không hề biết đã bắt được người chiến sĩ biệt động đã góp công lớn trận đã đánh thẳng vào đầu não kẻ thù năm 1968. Căn nhà số 287 hẻm 70 Nguyễn Đình Chiểu đã được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia và do chính người chủ cũ của nó trở thành người trông giữ và bảo quản. Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân Quận 3, Tp Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 2704 lượt xem
Nhà cổ Trần Văn Hổ tọa lạc số 18 đường Bạch Đằng, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương. Ông Trần Văn Hổ (Tự Đẩu) – nguyên là Đốc Phủ Sứ thời thuộc Pháp. Công trình được thân sinh ông Đẩu là cụ Trần Văn Lân xây dựng năm Canh Dần (1890), được công nhận di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật Quốc gia ngày 29/4/1993, tổng diện tích còn lại là 1.296m2. Mặt chính diện ngôi nhà quay về hướng Tây Nam, hướng sông Sài Gòn. Ngôi nhà nguyên là một khu nhà lớn gồm: nhà chính, nhà phụ, khu chuồng ngựa… Nhưng từ sau ngày giải phóng, do không có chủ bảo quản được nhà nước tiếp quản thu giữ. Hiện chỉ còn lại một ngôi nhà chính, đây là ngôi nhà lớn của gia đình được dùng chủ yếu là để thờ cúng ở gian giữa. Trước sân nhà được che phủ bởi cảnh thiên nhiên thu nhỏ của vườn hoa, cây cảnh, hòn non bộ được trang trí đầy đủ cảnh sinh hoạt “Ngư - Tiều - Canh - Mục”. Ngôi nhà có dáng dấp nhìn từ ngoài vào hơi thấp, với mái ngói rêu phong, tạo cảnh sắc thiên nhiên của sự cổ kính, thanh tịnh, tách hẳn với ồn ào náo nhiệt của cảnh phố chợ bên ngoài. Bước vào bên trong là cảnh phô trương, thể hiện sự sung túc vật liệu toàn là gỗ quý như Cẩm Lai, Giáng Hương, Gõ, Sến, mật… được sử dụng bày trí lớp lớp, từ mái nhà xuống cửa võng và cả bậc ngạch. Từ những song gỗ, đường nét ô vuông đến các mảng phù điêu tấc cả đều được bố trí đối xứng đến từng chi tiết, tạo nên bề thế trang nghiêm, thể hiện sự tôn ti, nề nếp và phong cách vương quyền. Lối kiến trúc của ngôi nhà theo dạng chữ “Đinh”, tổng diện tích xây dựng là 200m2 . Ngôi nhà xây dựng theo kiểu 3 gian, 02 chái gồm 36 cột tròn, 6 hàng cột tròn từ trước ra sau, mỗi hàng là 6 cột được kê toàn bộ trên đá tảng, nền lát gạch tàu. Ngoài ra, phía bên trái ngôi nhà có 3 cửa dạng một cánh được thông ra ngoài, trừ mặt tiền của ngôi nhà, còn lại 3 mặt bên được xây tường gạch. Mái ngói âm dương dài thoai thoải … Từ hệ thống mái vững chắc, có phần hơi thấp, bên trong nội tự được ngăn đôi bức tường giả hình chữ U tạo chiều sâu. Mảng giữa tường và khánh thờ là các bức Hoàng phi được sơn son thép vàng, các bức liễng bằng những câu đối cẩn xà cừ đính trên cột. Gian giữa phía trên là khám thờ với tấm Thủ quyển chạm nổi hình Tứ linh hoàng tráng, giữa bức thủ quyển ấy là ba hàng chữ đề danh hiệu các vị thần được thờ. Phía trái là thờ thần Táo với danh hiệu “Đông Trù Tư Mạng”, giữa là thờ trời với danh hiệu “Hiệp Thiên Đại Đế”, bên phải thờ phúc thần với danh hiệu “Phúc Đức Chánh Thần”, phía dưới thờ gia tiên nhiều đời. Với lối kiến trúc qui mô khép kín của ngôi nhà truyền thống Việt Nam vào thế kỷ 19, ngôi nhà đã để lại cho Bình Dương một công trình kiến trúc cổ, góp một phần giá trị lịch sử - nghệ thuật truyền thống dân tộc thật quý, minh chứng cho sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của vùng đất và con người Bình Dương, cả trong quá khứ cũng như hiện tại. Thật đáng được trân trọng và gìn giữ. Ở hai bên gian thờ giữa là hai buồng (phòng) chủ nhà; buồng ông và buồng bà.Trên hai cửa buồng có hai bức hoành đề: Ngự dược, Diên phi (cá nhảy, diều bay: Có ý mong thi dậu hoặc thăng quan lên chức). Nơi đây còn có các bao lam đều trang trí đẹp, công phu. Đối xứng hai bên hông buồng ngủ là hai tủ đứng cẩn xà cừ đẹp… Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương
TP Hồ Chí Minh 2786 lượt xem
Di tích danh thắng Núi Châu Thới là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Bình Dương được Bộ Văn hóa- Thông tin xếp hạng là di tích danh thắng cấp quốc gia ngày 21 tháng 4 năm 1989, với những giá trị nổi bật về lịch sử, văn hóa, cảnh quan thiên nhiên. Núi Châu Thới nằm ở vị trí gần quốc lộ 1K thuộc địa phận phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Núi Châu Thới cao 85m, trên đỉnh có ngôi cổ tự uy nghi, quang cảnh cây cỏ quanh năm tươi tốt. Theo các nguồn tư liệu khảo cứu, chùa Châu Thới được xây dựng vào khoảng năm 1612 do Thiền sư Khánh Long sáng lập từ một am tranh nhỏ, lúc bấy giờ chùa được mang tên là Hội Sơn Tự. Tuy nhiên, căn cứ vào lạc khoản còn lưu giữ ở chùa có ghi dòng chữ “Tân Dậu niên chánh nguyệt sơ kiến nhật”, có thể xác định chùa Châu Thới được xây dựng vào năm 1681 và là ngôi chùa được xây dựng sớm nhất tỉnh Bình Dương và thuộc nhóm lâu đời nhất Nam Bộ. Hơn 300 năm lịch sử, chùa Châu Thới đã trải qua 13 đời trụ trì; qua quá trình biến động lịch sử, chùa đã được tu tạo nhiều lần: Năm 1930, trùng tu lại nhà thờ Tổ và Giảng đường; năm 1971, đắp xi–măng 220 bậc thang lên núi; năm 1993, Chánh điện được trùng tu. Sau đó, các hạng mục khác như bảo tháp, đại hồng chung, tượng phật, rồng chầu…cũng được xây dựng, hoàn thiện. Bên cạnh những giá trị lịch sử tôn giáo, chùa Châu Thới còn mang những giá trị lịch sử cách mạng của vùng đất Dĩ An. Trong kháng chiến chống Pháp, dựa vào thế núi và ngôi chùa Châu Thới là nơi trú ẩn, hội họp của các nhà hoạt động cách mạng. Với địa thế hiểm yếu lại có các vị sư yêu nước, do đó rất thuận lợi làm điểm hội họp, dừng chân, ẩn náu; chùa Châu Thới đã từng là nơi luyện tập võ nghệ của các hội viên “Thiên địa hội”, nơi dừng chân của quân Đào Tây Sơn và là nơi lánh nạn của các chiến sĩ cách mạng. Các nhân vật nổi tiếng lúc bấy giờ như Huỳnh Văn Nghệ, Huỳnh Tấn Phát cũng từng đến chùa và hoạt động tại đây. Trong suốt 2 cuộc kháng chiến, các chư tăng ở đây đã ủng hộ tiền, gạo, vải, thuốc cho bộ đội; lúc cần kíp chùa Châu Thới đã ủng hộ cả Đại Hồng Chung để công binh xưởng đúc đạn đánh giặc… Chùa Châu Thới được liệt vào một trong những Danh lam cổ tự của Việt Nam; chùa, núi, quang cảnh xung quanh tạo nên một danh thắng phong thủy hữu tình, cảnh trí thơ mộng, xanh mát…các yếu tố kiến trúc hòa quyện, tạo điểm nhấn cho khung cảnh thiên nhiên, làm toát lên những giá trị văn hóa kiến trúc, văn hóa cảnh quan nổi bật. Chùa Châu Thới hiện còn lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị, trong đó có 3 pho tượng Phật được tạc cách đây hơn 300 năm; hệ thống tượng gỗ, tượng đất nung; đặc biệt chùa còn lưu giữ pho tượng Quan Thế Âm bằng gỗ mít trên 100 năm do chính Hòa thượng Thích Thiện Hóa chế tác. Tuy các hạng mục chính của chùa được xây bằng bê tông, cốt thép song được thể hiện bởi những bậc thợ tài hoa nên tổng thể chùa vẫn toát nên vẻ đẹp cổ kính, đậm màu sắc dân tộc. Quần thể chùa, điện trên núi Châu Thới gồm: Chánh điện, nhà Tổ, điện Thiên Thủ Thiên Nhãn, miếu Linh Sơn Thánh Mẫu, điện thờ Diêu Trì Kim Mẫu…một số hạng mục được trang trí bằng các mảnh gốm sứ rất đẹp mắt. Năm 1994, chùa đã vận động bà con đóng góp đúc 4 pho tượng đồng, mỗi tượng nặng trên 1 tấn, cao 2.5m do nhóm thợ kỳ cựu của xứ Huế, đây là những pho tượng đúc đồng đầu tiên tại tỉnh Bình Dương. Ngoài ra, chùa còn có tượng Quan Thế Âm cao 22,5m, cặp rồng lớn bao quanh, cách hàng chục km vẫn có thể nhìn thấy. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc, cảnh quan chùa Châu Thới trên đỉnh núi Châu Thới đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh cấp quốc gia năm 1989. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương
TP Hồ Chí Minh 3457 lượt xem
Đình Dĩ An tọa lạc tại khu phố Nhị Đồng 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Đình được xây dựng vào năm 1838. Năm 1853, được vua Tự Đức ban sắc phong thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh, là một ngôi đình cổ - nơi bảo lưu những giá trị lịch sử - văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xuân lược, đình là nơi các chiến sĩ cách mạng địa phương rèn luyện, hun đúc ý chí, tổ chức lực lượng để tiêu diệt kẻ thù. Đình là nơi hoạt động của “bộ đội Đào Sơn Tây”. Đặc biệt, trong thời gian kháng chiến chống Mỹ xâm lược, đình còn là nơi dừng chân, trú quân của lực lượng vũ trang tỉnh Thủ Dầu Một. Trong khuôn viên đình, hiện vẫn còn một số hầm bí mật của lực lượng vũ trang. Đồng thời, đình cũng là nơi sinh hoạt văn hóa của nhân dân trong vùng. Nhìn tổng thể kiến trúc, đình Dĩ An được thiết kế dạng chữ “nhất”, gồm: võ ca, võ quy, chánh điện, nhà khách, nhà túc,... Võ ca là nơi làm lễ Xây chầu và hát bội vào mỗi dịp lễ Kỳ yên, được xây dựng bằng bê tông thép và lợp tôn. Sân khấu, được xây dựng cao 0,8m, có hai bức tranh thủy mặc ở hai bên. Võ quy là nơi các chức sắc chầu lễ, cầm chầu (mỗi khi hát bội), hội họp, cũng là nơi chuẩn bị cho buổi ca diễn và dành cho khách. Nơi đây có thiết trí những câu đối bằng chữ Hán. Chính điện là nơi thờ tự chính của đình, với cột, kèo, rui, mè... đều được làm bằng gỗ; mái lợp ngói vảy cá, trên nóc có gắn hình bầu dục và hai con rồng; tường xây gạch; nền lát gạch men màu vàng. Chính điện được chia thành 15 gian, gồm 3 gian thờ chính và 12 gian thờ phụ. Bên trong chính điện được sắp xếp theo bố cục: Gian đầu tiên là nơi đặt bàn thờ Hội đồng nội, có thiết trí bao lam gỗ được chạm trổ rất tinh xảo, sơn son thếp vàng. Tiếp đến là án thờ Giáng Son - nơi thờ sắc phong của thần. Song song với án thờ Giáng Son là án thờ Tả Ban và Hữu Ban. Bàn thờ chính thần được đặt ở vị trí trang trọng, hai bên đặt tượng hai con bạch mã, lỗ bộ, võng điều; ngoài ra, còn trang trí bao làm bằng gỗ sơn son thếp vàng cùng các câu đối bằng chữ Hán. Sau chính điện và phía tây nam của đình là hai dãy nhà khách với nhiều gian nhà được trang hoàng khá trang trọng. Nhà được xây dựng gồm 80 cột gỗ quý, mái lợp ngói móc, toàn bộ được sơn phủ màu đen tạo nên nét cổ kính. Đây là nơi dùng để sinh hoạt và đón tiếp khách trong những ngày lễ cúng đình. Hàng năm, đình có hai lễ cúng lớn là: Lễ Cầu bông (cúng Tiên sư, Tổ nghiệp) diễn ra vào ngày 16-6 âm lịch với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và lễ Kỳ yên được tổ chức vào ngày 15 và 16-11 âm lịch (3 năm đáo lệ một lần) nhằm cầu cho quốc thái dân an. Ngoài ra, đình Dĩ An còn là nơi dung hợp nhiều tín ngưỡng: Thờ Thành Hoàng, Nữ Thần (Ngũ hành nương nương, Diêu Trì Địa Mẫu, Kim Hoa nương nương..); đền thờ Vua Hùng, đền thờ các anh hùng liệt sĩ và các bà mẹ Việt Nam Anh Hùng…thể hiện truyền thống tốt đẹp bao đời của người Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”. Đình Dĩ An được Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh ngày 18-3-2011. Ngày 28-3-2019, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng đình Dĩ An là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương
TP Hồ Chí Minh 3691 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 10499 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 9457 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 7502 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 7482 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 6299 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 6267 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 6219 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6153 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 5940 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 5875 lượt xem