Ứng dụng thuyết minh khám phá du lịch Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet

Tải ứng dụng Travelviet

Logo Travelviet

Di tích lịch sử

TP Hồ Chí Minh

Đình Tân An

Đình Tân An - Bến Thế nằm ở khu phố 1, phường Tân An, TP Thủ Dầu Một. Đây là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh được xếp hạng ngày 2/6/2004. Đến ngày 26/4/2014 Đình Tân An được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Đình được xây dựng vào năm 1820 bởi lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất này sinh cơ lập nghiệp. Ban đầu đình chỉ là mấy gian nhà lá đơn sơ nên đặt tên chữ là “Tương An miếu”, do nhân dân của 4 xã: Tương Bình (nay là Tương Bình Hiệp), Tương An (nay là Tân An), Tương Hòa (nay là Định Hòa) và Cầu Định (nay là Tân Định) lập để thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, vị trí đình được đặt tại làng Tương An. Khoảng 30 năm sau đó, tổ tiên dòng họ Nguyễn (làm chức Ban biện) đứng ra chủ trì xây dựng lại ngôi đình với quy mô lớn, có hình dáng như ngày nay. Mặt khác, dòng họ Nguyễn là một trong những lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất Tân An khai hoang lập nghiệp và có công trùng tu ngôi đình làng nên được dân làng tôn làm “Tiền hiền - Hậu hiền” và được thờ trong ngôi chánh điện để tỏ lòng thành kính. Vào ngày 19-11 năm Tự Đức thứ 21 (1869), vua Tự Đức ban sắc phong cho đình Tân An nhằm công nhận ngôi đình và phong tước hiệu cho thần Thành Hoàng để nhân dân biết mà thờ tự. Sắc phong luôn được cất giữ tại Nhà thờ dòng họ Nguyễn (hiện là nhà ông Nguyễn Tri Quan). Theo sắc phong vua Tự Đức ban thì vị thần được thờ chính trong đình là Tiền quân cơ Nguyễn Văn Thành, một vị quan triều đình nhà Nguyễn, đại thần của vua Gia Long. Nguyễn Văn Thành là một bậc khai quốc công thần triều Nguyễn, nhưng đã vướng vào trọng án “văn chương” của con trai Nguyễn Văn Thuyên, bị Gia Long nghi ngờ phản nghịch bị bức tử và chỉ được giải oan hơn nửa thế kỷ sau đó (vào năm 1868). Về tổng quan kiến trúc, ngôi đình được làm toàn bằng gỗ Sao, có lối kiến trúc hình chữ Tam, còn gọi là lối sắp đọi, dân gian gọi là đình ba nóc, theo kiểu xuyên trính, hai mái, hai chái, gồm 40 cây cột vuông bằng gỗ, hành lang rộng gồm 30 cột gỗ (do thời gian mưa nắng đã làm cho một số cột ở hai bên hành lang bị hư hại nên được thay bằng cột xây bằng gạch, vôi). Mái đình được lợp toàn bộ bằng ngói vây cá qua nhiều năm mưa nắng mái ngói phủ rêu phong trông rất cổ kính. Trên đình được trang trí hình lưỡng long tranh châu, ở các góc mái trang trí hình cá hóa rồng. Nền lát gạch đỏ (gạch tàu) hình lục giác. Toàn bộ ngôi đình có chiều rộng 50m, dài 70m, được xây trên diện tích hơn 10.000m2. Đặc biệt, toàn nội thất trong đình như hiện vật bàn thờ, tủ thờ, tấm hoành, bao lam, cột gỗ, câu đối… đều bằng gỗ quý được các bàn tay nghệ nhân chạm khắc rất tinh xảo với nhiều chủ đề khác nhau làm tôn lên kiến trúc nghệ thuật độc đáo của đình. Ngoài ra, đình còn lưu trữ một công trình chữ Hán rất phong phú còn lại cho đến ngày nay qua các cặp liễn đối, hoành phi, sắc thần… Hàng năm theo đúng lệ xưa , lễ hội diễn ra trong 3 ngày 3 đêm từ 14 đến 16 tháng 11 (âm lịch) là dịp trăng sáng để bà con thuận tiện vui chơi và đi lại. Đây cũng là dịp thủy triều dâng cao và theo quan niệm của nhân dân đó là điềm của mùa màng bội thu, của vạn vật tốt tươi, tiền của dồi dào… Đình Tân An là một di tích lịch sử - văn hóa mang đậm nét kiến trúc nghệ thuật và danh lam thắng cảnh. Đặc biệt, đình còn lưu giữ Sắc phong của vua Tự Đức. Trong những năm kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đình Tân An là nơi hoạt động cách mạng của địa phương. Nguồn: Báo Bình Dương điện tử

TP Hồ Chí Minh 2926 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình thần Phú Long

Đình Phú Long còn gọi là “Phú Long linh miếu” nằm ở khu phố Hòa Long, phường Lái Thiêu, thành phố Thuận An, được ban sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5 và được công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia năm 2001. Trải qua gần 200 năm, dù đã qua nhiều lần trùng tu nhưng kiến trúc và những hiện vật có giá trị còn lưu giữ tại đình. Đình do nhân dân địa phương lập để thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh. Lúc đầu đình được xây dựng bằng tre, gỗ, trên nền đất thô sơ. Sau đó, đình được trùng tu nhiều lần vào các năm 1865, 1935, 1997... Hiện nay, đình có tổng diện tích sử dụng là 5.828m2, diện tích xây dựng là 1.258m2. Đình được xây dựng kiểu chữ tam, theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, lợp ngói âm dương, nền lót gạch hoa. Cổng đình, tường vách dọc ngang được chạm trổ hoa văn, họa tiết, phần lớn được cẩn li ti bằng những mảnh men sành sứ cổ, đủ sắc màu, phong phú với nhiều hình tượng, điển tích đa dạng, mang sắc thái đặc thù của vùng sông nước thiên nhiên hài hòa. Về kiến trúc, toàn bộ mặt tiền, phần bê tông của đình được cẩn các mảnh gốm sứ đầy màu sắc, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật gốm sứ truyền thống trong kiến trúc đình, chùa tại Thủ Dầu Một. Toàn bộ tiền điện có gắn bao lam bằng gỗ được chạm trổ với các đề tài hoa trái như mai, lan, cúc, lựu, nho, chuối, tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở. Ở khoảng giữa trung điện và chính điện có một bao lam ghép gốm sứ men màu xanh, trang trí các hình long, lân, cảnh hội Bát tiên, Long Hải tướng quân, cá hóa rồng... Trên mái trung điện, ở giữa có hình nhật nguyệt, đầu hồi là hình long, lân, quy, phụng. Phần mái hậu điện cũng có các hoa văn cá hóa long, lưỡng long tranh châu. Bên trong mái ở trung điện và hậu điện là hai bộ vì kèo chịu lực bằng gỗ, kết cấu theo kiểu kẻ chuyền, hai hàng cột gồm sáu cây loại gỗ gõ, có đường kính 40cm. Chính giữa chính điện là án thờ sắc thần Thành Hoàng Bổn Cảnh được vua Tự Đức ban, hai bên thờ Tả Ban và Hữu Ban. Ở đây còn thờ các vị có công với làng, với đình theo thứ tự từng án thờ có lập bài vị. Riêng án thờ được đặt cao nhất là hình một chiếc ghế dựa bằng gỗ hình vuông, chạm thủng hình mai, lan, cúc, trúc, với long vị đắp nổi trông rất uy nghi (gọi là ngự). Chính điện có nhiều hương án được xếp trật tự dành cho du khách thập phương đến thắp nhang, lễ bái thể hiện lòng thành kính. Bên hương án có đôi quy, hạc đứng chầu, tượng trưng cho sự bền vững. Gian đầu hồi, bên trái đặt bàn thờ Ngũ Hành Nương Nương, bên cạnh đặt một cái mõ dài 1.8m, bên phải đặt bàn thờ ông Hổ, bên cạnh có một cái trống để sử dụng vào các dịp cúng tế, lễ hội. Các bàn thờ Tiền Hiền, Hậu Hiền cũng được bài trí tôn nghiêm. Từ ngoài nhìn thẳng vào chính điện, có hàng lễ bộ, gồm nhiều loại binh khí với bốn cặp hạc đứng trên lưng rùa. Đình còn lưu giữ rất nhiều câu đối khắc trên thân các cây cột, hương án..., tất cả đều được chạm trổ tinh vi, sơn son thếp vàng rực rỡ. Các hoa văn trang trí trong lẫn ngoài đình là hình cá hóa long, rồng cách điệu, cảnh hội Bát tiên... Ngoài các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, Đình Phú Long đã từng là nơi ẩn náu, cất giấu vũ khí của nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ cách mạng tại địa phương trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 2679 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Hội Khánh

Chùa Hội Khánh tọa lạc tại số 35 đường Yersin, phường Phú Cường, TP Thủ Dầu Một, là một công trình kiến trúc tôn giáo, nghệ thuật lớn nhất tỉnh, được công nhận Di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia ngày 7/1/1993. Chùa xây dựng từ thế kỷ 18 (1741), dưới chân đồi, cách trung tâm TP Thủ Dầu Một 500m về hướng Đông, năm 1861 chùa đã bị giặc Pháp thiêu hủy. Đến năm 1868, chùa được xây dựng lại ở vị trí hiện nay với diện tích xây dựng 1.211m2. Năm 2007, chùa xây dựng thêm ngôi tháp 7 tầng cao 27m và tái tạo lại Phật tích “Tứ động tâm”, gồm có: Vườn Lâm Tì Ni (nơi Phật ra đời), Bồ Đề Đại Tràng (nơi Phật hành đạo), Vườn Lộc Uyển (nơi Phật thuyết đầu tiên), Ta La Song Thọ (đức Phật nhập niết bàn) có ý nghĩa sâu sắc về đạo pháp. Năm 2008, Phật đài quy mô lớn, cao 22m được xây dựng ở khu đất phía trước chùa. Tầng trệt là dãy nhà dài 64m, rộng 23m dùng làm Trường Phật học, Thư viện… Tầng trên tôn trí đại tượng đức Bổn sư Thích Ca nhập Niết bàn cao 12m, dài 52m. Đây là một công trình mỹ thuật đáng tự hào của Phật giáo Bình Dương, được khánh thành trọng thể vào ngày 30/3/2010 (15/2/2010 Âm lịch) mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Về cấu trúc chùa gồm bốn phần chính: Tiền điện – chánh điện, giảng đường kiến trúc này có 92 cột gỗ quý, Đông lang và Tây lang chùa bố trí theo kiểu “sắp đôi” nối liền nhau với kiến trúc “trùng thềm, trùng lương” - đây là biến tấu đặc biệt trong kiến trúc theo truyền thống chùa cổ xứ Nam Kỳ; Chánh điện với kèo cột, vách gỗ và ba bộ cửa bức màn, còn có gần 100 tượng gỗ, các vị La Hán và thập điện Minh Vương dáng vẻ khác nhau được tạo bằng gỗ mít sơn son thếp vàng. Đặc biệt có hai bức phù điêu chạm hình 18 vị La Hán và các vị bồ tát, tạo nên một công trình điêu khắc tuyệt mỹ, có giá trị nghệ thuật cao mang đặc trưng của phong cách điêu khắc gỗ Bình Dương xưa. Về phần nghệ thuật trang trí nội thất, tranh tượng tự khí thờ phượng được điêu khắc, chạm trổ rất công phu, sắc sảo… đặc biệt phải kể đến bộ bao lam “Thập bát La Hán” (tạo tác năm 1921), bức phù điêu “tứ thời” ốp vào hai cột trước Chánh điện. Các bàn thờ chạm trổ tinh vi hoàn thành vào năm Ất Sửu (1925). Nhà chùa còn giữ được bộ mộc bản in kinh cách đây trên 120 năm. Đại hồng chung của chùa được đúc vào năm Quý Mùi (1883) do Bổn đạo Dương Văn Lúa hiến cúng. Trong những năm 1923 -1926, Chùa Hội Khánh còn là nơi ẩn náu quy tụ các nhân sĩ: Nhà nho, nhà sư yêu nước cùng lập ra “Hội danh dự” với sự tham gia của chính hòa thượng Từ Văn, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (Thân phụ của bác Hồ), cụ Tú Cúc… mục đích của Hội là cổ vũ cho lối sống đề cao đạo đức, coi trọng danh dự và lòng yêu quý đồng bào đất nước. Dù Hội chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn nhưng đã gây dược ảnh hưởng đáng kể. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chùa Hội Khánh là trụ sở Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Thủ Dầu Một, đã góp nhiều công sức, tâm huyết kể cả xương máu của các nhà tu, Phật tử nhà chùa. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân địa phương từ năm 1953, chùa là trụ sở Phật giáo yêu nước tỉnh Bình Dương và đến năm 1983 Chùa Hội Khánh là trụ sở của tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương. Năm 1995, nơi đây, Tỉnh hội xây dựng Trường cơ bản Phật học tỉnh Sông Bé (Bình Dương). Hiện Thượng tọa Thích Huệ Thông trụ trì Chùa Hội Khánh (từ năm 1988) và là Phó ban Thường trực Tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 2856 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh

Di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh nằm ở địa điểm thuộc ấp 1 xã Minh Tân (trước là xã Minh Thạnh) huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương (vị trí cũng đã được Đại tướng Văn Tiến Dũng xác định năm 1987). Di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia ngày 11/5/2010. Di tích Sở Chỉ huy Tiền phương Chiến dịch Hồ Chí Minh là di tích tiêu biểu, phản ánh sự lãnh đạo, chỉ huy đúng đắn, trực tiếp và sáng tạo của Trung ương Cục, Quân ủy Miền và Bộ Tư lệnh chiến dịch. Di tích mặc dầu là một cơ quan tạm thời, nhưng đã thể hiện được vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt trong chiến lược chiến tranh của thời đại mới, mà trực tiếp là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sở dĩ gọi là di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh là vì Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập ở căn cứ quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại ấp Tà Thiết Krom – Lộc Thành - Lộc Ninh, Sông Bé. Sau cuộc họp ngày 25/3/1975 của Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương, theo sự phân công của Bộ chính trị, cùng ngày, đồng chí Lê Đức Thọ vào Lộc Ninh để cùng các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng thay mặt Bộ chính trị trực tiếp chỉ đạo chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Khi chiến dịch sắp mở màn, để trực tiếp chỉ huy chiến dịch ngay từ đầu sát với tình hình tác chiến cơ quan, Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đã được Bộ Chính trị mà trực tiếp là đồng chí Lê Đức Thọ, đồng chí Văn Tiến Dũng quyết định chuyển tới căn cứ tiền phương sát với chiến trường hơn và chọn Căm Xe làm Sở chỉ huy Căm Xe, hay còn gọi là sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chì Minh. Với vị trí đã được xác định chuyển dời này, di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh là một trong những địa điểm quan trọng quyết định sự chỉ đạo đúng đắn và sáng suốt, trực tiếp, nhanh nhẹn nhằm tạo thuận lợi cho thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử của Bộ chính trị giao cho giải phóng Sài Gòn - Gia Định, giải phóng Miền Nam trước mùa mưa, kết thúc thắng lợi 30 năm đấu tranh cách mạng và khởi nghĩa vũ trang của nhân dân ta một cách trọn vẹn với thời gian nhanh nhất. Di tích nằm trong khu vực rừng cây, có rất nhiều suối nhỏ và ngắn đổ vào con suối lớn Căm Xe như suối Các Liễu, suối Ong Lô, suối Biên Lộc, suối Bà Già, suối Bà Thành….(Căm Xe theo lịch sử địa phương là một vùng đất lâu đời, có một khu rừng nguyên sinh với nhiều loại cây gỗ quý, bên cạnh có dòng suối. Chính dòng suối này, với những đặc điểm lợi hại mang tính chất “thượng võ” của nó đã tạo nhiều thuận lợi để quân và dân ta đánh đuổi kẻ thù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ). Đây là khu rừng tái sinh, rừng cây cũ đã bị chặt phá, rừng tái sinh cũng bị đốt nhiều lần. Vì di tích là một cơ quan tạm thời nên các lán trại, hầm hào tại đây chủ yếu được làm bằng vật liệu là gỗ có sẵn, sau thời gian dài mưa nắng phá hủy chỉ còn lại những vết tích khá mờ nhạt, chỉ có hố bom nơi đồng chí Văn Tiến Dũng lấy nước để sinh hoạt là còn khá nguyên vẹn. Theo người dân sinh sống nơi đây thì cứ đến tháng 3 thì đốt để trồng sắn. Hiện nay thì cảnh quan khu vực này đã thay đổi rất nhiều so với trước, rừng cao su bạt ngàn bao quanh khu vực di tích. Những dấu vết còn lại như: hố bom lấy nước sinh họat, dấu vết các hầm hào cũng đã mờ, cỏ cây mọc khá nhiều, phải rất khó khăn mới tìm được những dấu vết cũ do cỏ cây che khuất. Năm 1987 đại tướng Văn Tiến Dũng cùng một số đồng chí cán bộ miền về thăm và xác định vị trí trên cơ sở những dấu tích còn lại. Sau đó huyện đội Bình Long và nhân dân xã Minh Thạnh đã xây dựng bia làm mốc đánh dấu tại nơi đây. Bia được làm bằng chất liệu bê tông cốt thét, có độ cao 3m, rộng 2,5m, trên bia có gắn ngôi sao, dưới ngôi sao có ghi dòng chữ Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh, 30 tháng 4 năm 1975, xã Minh Thạnh. Đến ngày 20/8/1990, Bảo Tàng Quân Khu 7 xây dựng bia khác cách tấm bia cũ khoảng 3m, có chiều cao 15m, chiều ngang 1,5m, bia cũng được làm bằng chất liệu bê tông cốt thép. Đến năm 2005 được trùng tu lại bằng đá hoa cương cho đến nay. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 2828 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử Chiến Khu D

Chiến khu Đ được hình thành vào tháng 2-1946 với địa bàn ban đầu bao gồm 5 xã: Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Thị Xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Trong từng giai đoạn lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc, phạm vi Chiến khu Đ lại có sự thay đổi. Chiến khu Đ là mật danh chỉ tổng hành dinh của Khu 7, nằm trong hệ thống các khu vực của khu tính theo thứ tự bảng chữ cái (A: Căn cứ giao thông liên lạc, B: Căn cứ hậu cần, C: Khu bộ đội thường trực). Về sau, mật danh Đ được dùng để chỉ luôn cả chiến khu rộng lớn. Ngoài ra, còn có một số cách lý giải khác: Đ mang ý nghĩa là “đỏ”, ý chỉ vùng chiến khu cách mạng kiên cường, một “địa chỉ đỏ” của cả nước; Đ là chữ cái đầu của địa danh Đất Cuốc - nơi bộ đội Huỳnh Văn Nghệ xây dựng cứ điểm đầu tiên; Đ là chữ viết tắt của chiến khu Đồng Nai, chiến khu miền Đông, chiến khu đầu tiên... Trên cơ sở phạm vi ban đầu gồm 5 xã thuộc huyện Tân Uyên, từ năm 1948 trở đi, Chiến khu Đ được mở rộng, lấy đường 16 từ phía tây và sông Đồng Nai từ phía nam làm ranh giới để mở rộng lên phía bắc tới Phước Hòa và phía đông tới sông Bé; sau đó tiếp tục vượt qua sông Bé phát triển mãi lên phía bắc và đông bắc. Dù vậy, phạm vi chủ yếu của chiến khu nằm trên vùng đất: Phía tây giáp đường 16, đoạn từ thị trấn Tân Uyên lên Cổng Xanh; phía bắc giáp sông Bé, đoạn từ cầu Phước Hòa lên Chánh Hưng; phía đông vẫn giáp sông Bé đoạn từ Chánh Hưng đến ngã ba Hiếu Liêm và phía nam giáp sông Đồng Nai, đoạn từ ngã ba Hiếu Liêm về thị trấn Tân Uyên. Sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, từ phạm vi chiến khu cũ (chủ yếu nằm trên địa bàn Tân Uyên), ta chuyển dần trung tâm căn cứ lên phía đông bắc. Đến đầu năm 1975, căn cứ được xây dựng hoàn chỉnh, phạm vi mở rộng tối đa. Lúc bấy giờ, Chiến khu Đ nằm trong phạm vi: Phía nam giáp sông Đồng Nai; phía tây giáp tỉnh Bình Dương và cắt qua địa phận hai tỉnh Phước Long, Bình Long (nay là Bình Phước); phía bắc vươn xa giáp biên giới Việt Nam - Campuchia (đoạn từ Bù Đốp đến Bù Đăng); phía đông giáp các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng. Chiến khu Đ được xem như một trung tâm kháng chiến, là nơi ra đời của các lực lượng vũ trang miền Đông Nam bộ. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Chiến khu Đ là một trong những căn cứ quan trọng của các cấp ủy Đảng, các tổ chức chính quyền và cơ quan chỉ huy quân sự thuộc nhiều huyện, tỉnh lân cận và cả Khu 7, Phân liên khu miền Đông và Nam bộ. Đây cũng là nơi ra đời các đơn vị vũ trang trong những ngày đầu kháng chiến, như: Chi đội 1, Chi đội 10, Trung đoàn 301, Trung đoàn 310, Liên trung đoàn 301 - 310, Tiểu đoàn chủ lực 303, Tiểu đoàn vận tải 320... Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Chiến khu Đ là nơi xây dựng, đứng chân các cơ quan lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang từ huyện, tỉnh, liên tỉnh, quân khu đến Trung ương Cục. Chiến khu Đ là nơi ra đời lối đánh đặc công, khởi đầu là trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên ở Tân Uyên ngày 19-3-1948, để từ đó hình thành bộ đội đặc công, phát triển lối đánh đặc công ra cả nước. Chiến khu Đ còn là nơi gắn liền với những chiến công vang dội của quân và dân miền Đông Nam bộ. Đặc biệt, đây là nơi xuất phát chiến dịch 12 ngày đêm (từ ngày 9 đến 21-4-1975) giải phóng thị xã Long Khánh, đập tan cánh cửa thép Xuân Lộc - tuyến phòng ngự cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn, mở đường cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Tồn tại gần 30 năm (1946-1975), Chiến khu Đ là một dấu son trong trang sử oai hùng của “Miền Đông gian lao mà anh dũng”. Với ý nghĩa lịch sử, tầm vóc và sự đóng góp của Chiến khu Đ qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, ngày 11-5- 2010, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Chiến khu Đ là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Báo Bình Dương điện tử

TP Hồ Chí Minh 4227 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử Địa đạo Tam Giác Sắt

Địa đạo Tây Nam Bến Cát (Tam giác sắt) nằm trên vùng đất 3 xã: An Điền, An Tây, Phú An thuộc khu vực phía Tây Nam thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Với vị trí và tầm vóc trong hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, Địa đạo Tây Nam Bến Cát được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia ngày 18/3/1996, có tổng diện tích 230.000m2. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trước đây, vùng đất 3 xã Tây Nam Bến Cát sớm được nổi danh với Chiến khu An Thành. Thuở đó, An Thành đã từng là nơi dừng chân của các cơ quan đầu não kháng chiến Khu Bộ miền Đông, xứ Ủy Nam bộ, Đặc Khu ủy Sài Gòn - Gia Định,… nhờ đó mà người dân địa phương sớm được giác ngộ cách mạng và đã từng đương đầu với biết bao thử thách ác liệt nhất trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy gian khổ và hy sinh của nhân dân ta. Năm 1948, hệ thống địa đạo đầu tiên xuất hiện từ vùng đất này. Sau đó năm 1960, du kích Củ Chi đến học tập kinh nghiệm và xây dựng hệ thống địa đạo ở địa phương mình. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, kẻ thù đã nhiều lần càn đi xát lại, nhưng chúng không khuất phục nổi lòng dân ở đây. Đến khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào trực tiếp chiến đấu ở Miền Nam, năm 1967 bằng đủ loại binh hùng tướng mạnh và những phương tiện giết người hiện đại nhất, chúng mở cuộc càn với quy mô lớn gồm 30.000 quân, 400 xe tăng, 80 tàu chiến, 100 đại bác và nhiều loại máy bay ném bom, kể cả máy bay B52 hòng hủy diệt mục tiêu quan trọng này. Nhưng dựa vào hệ thống địa đạo quanh co, chằng chịt, quân và dân ta lúc ẩn, lúc hiện bí mật bất ngờ mở đợt chống càn quyết liệt. Cuối cùng giặc Mỹ phải rút lui. Với sự thất bại thảm hại, 3.200 tên Mỹ ngụy bị diệt, 149 xe tăng và xe bọc thép bị phá hủy, 28 máy bay bị bắn rơi, 2 tàu chiến bị bắn chìm, bắn cháy… Trong trận này nổi lên anh hùng bắn tỉa - Nguyễn Văn Đực, chỉ 10 viên đạn tiêu diệt 9 tên xâm lược hoặc Võ Thị Huynh - anh hùng lực lượng vũ trang từng lăn mình dưới làn bom đạn để chăm sóc, bảo vệ thương binh. Sau những thất bại liên tiếp, kẻ thù đành bất lực, chúng phải gọi vùng này là vùng “Tam giác sắt”. Địa đạo Tây Nam Bến Cát không đơn thuần mang ý nghĩa địa danh mà nó là biểu tượng cho cách mạng, cho kháng chiến. Với phương tiện thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ky xúc đất bằng tre, quân và dân 3 xã đã tạo nên công trình đồ sộ với hàng trăm con đường hầm ngang dọc trong lòng đất, nối liền các xã với nhau như một ”Làng ngầm”. Các gia đình ở khu vực vành đai, nhà nào cũng đào hầm, hào nối liền vào địa đạo, tạo thế liên hoàn để vừa bám trụ sản xuất vừa đánh giặc giữ làng. Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi sau chiến đấu, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực thực phẩm, nước uống, có giếng nước, hầm nấu ăn, hầm làm việc, chỉ huy, hầm nuôi dưỡng thương binh. Địa đạo Tây Nam Bến Cát với các hoạt động của nó đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hai cuộc kháng chiến, nhất là trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Trong suốt 20 năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Địa đạo Tây Nam Bến Cát đã phát huy tác dụng của một địa đạo chiến. Dựa vào hệ thống địa đạo, quân dân 3 xã Tây Nam đã chiến đấu chôn vùi hàng ngàn tên giặc, bắn cháy và phá hủy hàng trăm xe tăng và xe bọc thép… Đặc biệt trong chiến dịch Mậu Thân 1968 và mùa xuân năm 1975, Địa đạo Tây Nam là nơi nhiều cánh quân lớn tập kết từ đây tiến đánh vào Sài Gòn, góp phần vào sự nghiệp kháng chiến thắng lợi của quân dân cả nước năm 1975. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3000 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Nhà tù Phú Lợi

Di tích nhà tù Phú Lợi Hiện tọa lạc trên đường Một Tháng Mười Hai, phường Phú Lợi, thị xã Thủ Dầu Một. Tổng diện tích hiện nay là 77.082m2,đã được nhà nước công nhận và xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia ngày 10/07/1980. Tồn tại suốt tám năm (1957-1964). Nhưng với tinh thần kiên cường bất khuất, các tù nhân Phú Lợi đã đoàn kết anh dũng đấu tranh thắng lợi. Với mưu đồ xâm lược miền Nam, bằng thủ đoạn mị dân, khủng bố đến chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” chỉ trong vòng 2 - 3 năm sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Mỹ Diệm gây không biết bao nhiêu tội ác trên cả miền Nam. Bằng khẩu hiện “thà bắt nhầm hơn bỏ sót”, chúng đã xây dựng thêm nhiều nhà tù. Nhà tù Phú Lợi là một trong những nhà tù lớn của Mỹ - Diệm ở miền Nam được dựng lên giữa năm 1957 để giam cầm và tra tấn các chiến sĩ cách mạng và những người yêu nước lúc bấy giờ. Số tù nhân chúng đưa về Phú Lợi đầu tiên có 4 nữ và khoảng 100 nam, đến cuối 1957 tăng lên 3.000 tù nhân. Chúng chia trại giam thành nhiều khu vực: khu hành chánh, khu gia đình binh sĩ, khu An Trí Viện – gọi là khu “An Trí Viện” nhưng thực chất là trại giam. Khu trại giam gồm có 3 trại: Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa. Cả 3 trại có 9 phòng giam đánh dấu A,B,C,D,… mỗi trại ngăn cách nhau bằng bức tường kẽm gai dày đặc. Bao quanh 3 trại là 2 bức tường cao, có mấy lớp kẽm gai, hệ thống đèn điện chiếu sáng vào ban đêm, hoàn toàn cách biệt với bên ngoài. Ở giữa trại giam có nhà vòm cao để quan sát toàn khu trại. Xung quanh có 4 cổng ra vào và 4 lô cốt canh phòng nghiêm ngặt. Có hai cổng chính: cổng thứ nhất mang bảng “Trung tâm cải huấn Phú Lợi”, cổng thứ hai mang bảng “An trí viện”. Đến cuối năm 1958, số tù nhân lên đến gần 6.000 người, trong đó có 1.000 tù nhân là nữ. Anh chị em tù nhân quê quán ở khắp mọi miền đất nước chẳng may rơi vào tay giặc và bị chúng tập trung về đây. Chế độ khắc nghiệt của nhà tù Phú Lợi cũng không khác ở nhiều nhà tù khác lúc bấy giờ, ăn gạo mục cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi… Sống bẩn thỉu, thiếu nước, nằm xà lim, chuồng cọp, lao động khổ sai bệnh tật không thuốc chữa trị… và những đòn điều tra đánh đập dã man… và chúng đặt ra “24 điều cấm” rất khắc nghiệt để lấy cớ đánh đập tù nhân. Trước những thủ đoạn vừa khủng bố vừa mị dân, những cảnh tra tấn dã man đày ải cực hình, anh chị em trong tù vẫn giữ được lòng kiên định và ý chí kiên cường chiến đấu. Đó là nhờ có sự lãnh đạo của Đảng và sự tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của những người yêu nước, những người cộng sản. Qua kinh nghiệm thực tế trong phong trào hoạt động bí mật, nên chỉ trong một thời gian ngắn các Đảng viên ở các trại đã tổ chức được đường dây liên lạc với nhau, các nhóm Đảng viên các chi bộ bí mật lần lượt được thành lập. Đầu năm 1958, Đảng ủy Trung tâm Phú Lợi được thành lập. Suốt những năm tháng ở đây, tù nhân có tổ chức bí mật của Đảng ta chỉ đạo. Ban Đại diện, Tổ Tâm giao, hoặc Đôi bạn đồng hương ở từng trại giam làm nòng cốt đấu tranh, từng bước đấu tranh với kẻ thù đòi cải thiện đời sống, chống đàn áp, chống tra tấn tù nhân. Tất cả là nhờ sự kiên trung của các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà tù Phú Lợi trở thành một bằng chứng về tội ác của Mỹ – Ngụy tại miền Nam Việt Nam; nơi đây là biểu tượng cho lòng dũng cảm của cán bộ đảng viên, các đồng chí cách mạng và đồng bào yêu nước đã ngã xuống trong nhà tù vì độc lập, tự do, hoà bình, hạnh phúc cho quê hương đất nước. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương

TP Hồ Chí Minh 3606 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Châu Hưng

Chùa Châu Hưng tọa lạc tại số 37 đường Cây Keo, khu phố 1, phường Tam Phú, thành phố Thủ Đức. Được tạo lập năm 1884 với kết cấu đơn sơ, qua nhiều lần trùng tu sửa chữa. Chùa được xây dựng mới hoàn toàn vào năm 2006 đến năm 2009 thì hoàn thành, với diện tích xây dựng 365 mét vuông trên tổng diện tích 5.796m2. Trước ngày 30/4/1975, chùa Châu Hưng được xây dựng trên đất Gò Cát, xung quanh là những ruộng lúa và rau muống. Đây là một địa chỉ đỏ, từng là cơ sở nuôi giấu cán bộ du kích và bộ đội về đứng chân bám trụ ngay cửa ngõ Sài Gòn. Các vị đại đức, hòa thượng, trụ trì ở đây là những người luôn có chí hướng theo cách mạng, lực lượng nằm vùng tại khu vực này luôn lấy ngôi chùa làm cơ sở hoạt động. Đầu năm 1973 khi Hiệp định Pari được ký kết, địch dồn quân về bảo vệ Sài Gòn nên chiến trường Bắc Thủ Đức lúc bấy giờ như một cái túi chứa các đơn vị của địch nhằm án ngữ hướng Đông Bắc Sài Gòn, ngăn chặn lực lượng ta đưa quân xuống đánh vào Sài Gòn, nên chúng liên tục tổ chức các cuộc càn quét, phát quang địa hình, lúc này lực lượng ta bám trụ rất khó khăn, vất vả. Chùa được xây dựng theo cấu trúc của văn hóa Việt Nam, tạo nên sự thông thoáng mát mẻ, hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Với kiến trúc riêng biệt như phòng khách, nhà vãng sanh và khuôn viên chùa với nhiều loại cây cảnh, hòn non bộ. Chùa có cấu trúc mặt bằng kiểu chữ nhị, cổng xây theo dạng tam quan. Nhìn từ phía bên ngoài, chùa được xây dựng bằng bê tông cốt thép với màu vàng chủ đạo của nhà Phật, gồm hai tháp riêng biệt: Tháp 1: Là mặt tiền chùa thuộc phía trên tiền điện. Tháp có 2 tầng ở trên đỉnh tháp có gắn bánh xe pháp luân. Chính giữa tầng 2 có ghi “Châu Hưng Cổ Tự” bằng chữ Hán. Tầng dưới viết “Chùa Châu Hưng” bằng chữ quốc ngữ, hai bên còn có hai cặp câu đối bằng chữ Hán. Tầng trệt là cửa chánh điện, chỉ mở vào các dịp đại lễ hoặc các ngày rằm trong tháng. Tháp 2: Có 2 tầng, cao hơn tháp 1, hai bêm hông tháp có gắn chữ “Vạn” và chữ “Phật” bằng chữ Hán. Chùa Châu Hưng là một cơ sở tôn giáo mang giá trị về mặt văn hóa và lịch sử, được xếp hạng di tích cấp Thành Phố ngày 18/8/2011. Cũng giống như những ngôi chùa khác, chùa Châu Hưng là nơi để người dân, tín đồ tìm nguồn động viên, an ủi, giải toả áp lực trong cuộc sống; là nơi để mong cầu, ước nguyện về một tương lai tốt đẹp, đồng thời cũng là nơi răn dạy con người phải biết sống hướng thiện. Mặc dù, chùa đã được trùng tu nhiều lần bằng vật liệu kiên cố, không còn giá trị ngôi cổ tự xưa, song trong chùa hiện vẫn còn lưu giữ được 14 pho tượng cổ, 4 long vị và tấm hoành phi khắc 4 chữ “Tổ ấn trùng quang” đã có từ lâu đời. Không chỉ thế, chùa Châu Hưng còn góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, chùa đã cưu mang đùm bọc, nuôi giấu, chở che biết bao thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong hoàn cảnh bom, đạn ác liệt. Nhiều Phật tử của chùa bị địch tình nghi hoặc bị bắt rồi đánh đập, tra tấn hết sức dã man. Tuy nhiên, Phật tử của chùa vẫn đứng vững trước bao khó khăn, thử thách và là cơ sở hoạt động vững chắc của cách mạng cho đến ngày thống nhất đất nước. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa TP Thủ Đức

TP Hồ Chí Minh 3277 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Chùa Bửu Thạnh

Chùa Bửu Thạnh tọa lạc tại số 62 đường 6, khu phố Ông Nhiêu, phường Long Trường, TP Thủ Đức. Ngày 30/11/2006, Chùa Bửu Thạnh được công nhận di tích lịch sử cấp Thành phố. Chùa Bửu Thạnh được xây dựng năm 1801, thuộc hệ phái Bắc Tông. Người sáng lập ra ngôi chùa Bửu Thạnh là vị Tổ Sư pháp hiệu Tiên Hiền, người trụ trì chùa suốt 32 năm và viên tịch năm 1833. Thuở sơ khai, chùa có quy mô kiến trúc khá lớn, xây dựng bằng gỗ quý, tọa lạc trên diện tích đất rộng. Trong chiến tranh chống Pháp năm 1947, chùa bị thiêu hủy hoàn toàn. Năm 1955, Hòa thượng Thích Huệ Thành trùng tu lại ngôi chùa mới cách chùa cũ khoảng 50m về hướng Tây Bắc, tọa lạc trên diện tích đất rộng 6,5 ha. Sau 10 năm được tái lập, chùa Bửu Thạnh một lần nữa lại bị giặc Mỹ phá hủy. Năm 1976, Hòa thượng Thích Huệ Thành lại về trùng tu chùa và giao cho đệ tử là Hòa thượng Thích Huệ Cảnh làm trụ trì. Về việc thờ cúng, chùa Bửu Thạnh thuộc hệ phái Bắc Tông nên ngoài nhân vật trung tâm được thờ là Đức Phật Di Đà, Thích Ca, Di Lặc; chùa còn thờ Thánh Mẫu, Quan Đế Thánh Quân, Ngũ Hành. Chùa Bửu Thạnh được xây dựng theo kiểu chữ “Tam”, công trình chính gồm: Chánh điện, Tổ đường, Nhà túc. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có một số công trình khác như: cổng Tam quan, nhà khách, trai đường và nơi ở của tăng chúng, miếu thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, ngôi bảo tháp Cửu trùng thờ Ngọc Xá Lợi Phật, thờ cố Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Thành… Trải qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, cũng là 2 lần chùa bị phá hủy hoàn toàn rồi lại tái lập, nên trong chùa hiện nay hầu như không còn bảo lưu được di vật cổ nào. Tất cả hiện vật trong chùa hiện nay như: Đại hồng chung, trống, tượng Phật, hoành phi, liễn đối… đều mới được tái tạo vài chục năm trở lại đây. Tuy nhiên, trong sân chùa vẫn còn lưu giữ 12 tảng đá xanh kê chân cột, hình vuông, mỗi tảng đá có kích thước 40x40cm. Ngoài ra, trong tịnh địa sau chùa (nơi ngôi chùa Bửu Thạnh xưa tọa lạc) vẫn còn 5 ngôi tháp cổ bằng đá ong của các đời trụ trì chùa trước kia. Đây có lẽ là những di vật duy nhất chứng minh sự tồn tại lâu đời cũng như quy mô bề thế trước kia của chùa Bửu Thạnh. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa TP Thủ Đức

TP Hồ Chí Minh 3235 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Khu Di Tích Lịch Sử Bót Dây Thép

Di tích Bót Dây Thép gồm 3 căn nhà biệt lập, kiến trúc kiểu Tây phương, tường gạch, mái ngói, nằm trên khu đất cao thuộc phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Thủ Đức. Bót Dây thép xây dựng từ rất lâu, theo các bô lão trên 80 tuổi thì ngay lúc nhỏ đã thấy nhà Dây Thép. Trước năm 1945, Bót dây thép tiền thân được gọi là Nhà dây thép vì được xây dựng dùng làm trạm phát và thu nhận tin tức của người Pháp. Trạm được thiết kế xây dựng gồm ba căn nhà biệt lập kiến trúc theo kiểu 'tây' với ba cột ăng-ten, cột cao nhất đến hơn 70 m. Công trình do hai người Pháp là Hermall và Stéru thiết kế để phục vụ cho quá trình xâm lược của thực dân Pháp trước năm 1945. Bót dây thép là căn nhà một trệt, một lầu, bố trí nhiều cửa sổ trổ ra bốn hướng. Phía trái ngôi nhà có hai cầu thang dẫn lên lầu một. Ðiều lạ lùng nhất là trong Bót dây thép có một căn hầm bí mật dùng để nhốt, tra tấn người mà chúng cho là 'phản nghịch'. Hầm chỉ có một lỗ thông hơi duy nhất ở phía trên nóc. Miệng hầm có kích thước nhỏ (0,4 m2) chỉ vừa đủ cho một người đứng thẳng lọt vào trong hầm. Năm 1945, khi Nhật đảo chính hất cẳng Pháp ở Ðông Dương, Nhà dây thép bị quân phát-xít Nhật chiếm giữ. Sau đó không lâu, phát-xít Nhật bị đánh bại, thực dân Pháp trở lại và Nhà dây thép lại thuộc về tay người Pháp. Khi chiếm lại Nhà dây thép, thực dân Pháp cho hạ bớt cột ăng-ten (chỉ chừa lại một cột) và xây thêm hai căn nhà gạch nền cao, một căn để viên chỉ huy có tên là Pi-rô-let ở và căn còn lại dành cho để binh lính Pháp canh giữ. Từ ngày tiếp quản Bót dây thép, quân Pháp đã biến nơi này thành ngục tù, bắt bớ, vây hãm, hành hạ, tra khảo những người dân của làng Tăng Nhơn Phú anh hùng và những ai mà chúng nghi ngờ là có liên quan, tiếp tế cho các chiến sĩ cách mạng. Tại đây, trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, binh lính Pháp đã khảo tra, hành hạ biết bao người dân cũng như chiến sĩ cách mạng kiên cường. Chúng bắt bớ, dùng mọi biện pháp tra khảo một cách dã man. Có những tù nhân bị ngộp thở chết vì hầm giam người quá đông, không có dưỡng khí. Nhiều người khác, bất kể già trẻ, trai gái, hễ bị chúng nghi ngờ là phải đứng xếp hàng cho chúng bắn chết ném xác xuống sông Cầu Bến Nọc. Tàn bạo hơn, chúng còn dùng mã tấu chặt đầu, xác ném xuống sông, đầu cắm vào cọc, dựng thành hàng dài trước Bót dây thép để 'trưng tội', ngăn ngừa những người yêu nước đứng lên. Bót dây thép trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp là một địa ngục trần gian đối với bao người dân vô tội. Di tích Bót dây thép được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia ngày 18-1-1993. Nguồn: Đoàn phường Tăng Nhơn Phú A

TP Hồ Chí Minh 4875 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình thần Linh Đông

Đình Linh Đông nay tọa lạc tại số 28 đường Chương Dương, phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức. Đình nằm trên một gò đất cao, có diện tích 2479.1m2. Mặt tiền đình quay về hướng Đông - Nam. Đây là một công trình đặc sắc, có giá trị về lịch sử - văn hóa, kiến trúc nghệ thuật; thể hiện sự gắn kết cộng đồng làng xã của cư dân Nam Bộ, tinh thần tôn trọng, tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền hiền đã có công khai phá lập làng, lập đình...đồng thời cũng thể hiện trí tuệ, sự tài hoa, khéo léo của các bậc nghệ nhân xưa. Căn cứ chữ hán khắc trên cây đòn nóc tiền điện đình Linh Đông “Quý mùi niên, quý thu, cát nhật tạo” (dựng đình ngày lành tháng 9 năm Quý Mùi - 1823) có thể xác định đình Linh Đông được xây dựng vào đầu thế kỷ 19. Buổi đầu, kiến trúc đình Linh Đông có thể được xây dựng với quy mô nhỏ và bằng các vật liệu nhẹ. Thời gian sau, kiến trúc đình có sự thay đổi ngày càng khang trang, tôn nghiêm hơn với tường gạch, mái ngói, hệ thống kết cấu gỗ như: cột, vì kèo, câu đầu, xà, đòn tay, rui, mè hầu như còn bảo tồn nguyên vẹn đến ngày nay. Đình Linh Đông là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật. Trải qua thời gian dài tồn tại và phát triển, kiến trúc của đình Linh Đông vẫn còn lưu giữ được nhiều yếu tố kiến trúc đình làng truyền thống Nam Bộ. Đình Linh Đông xây dựng theo dạng chữ Tam gồm ba nếp nhà: tiền điện, trung điện và chính điện, nhà khách và nhà bếp, phần còn lại là sân đình. Trong đó, nổi bật là kiến trúc tiền điện và chính điện. Tiền điện là nếp nhà năm gian, chính điện theo kiểu tứ trụ với tổng số lượng là 32 cột gỗ chống đỡ toàn bộ hệ thống mái ngói âm dương. Các bàn thờ trong chính điện được bài trí đăng đối nhau. Trung tâm là khám thờ Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh; phía trước là án thờ Hội Đồng; bên phải là khám thờ Ngũ Thổ Thần Vị và khám thờ Tiền Hiền Chi Vị; bên trái là khám thờ Ngũ Cốc Thần Vị và khám thờ Hậu Hiền Chi Vị. Đặc biệt đình còn lưu giữ sắc phong do vua Tự Đức ban cho Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh thôn Linh Chiểu Đông, huyện An Nghĩa vào ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức thứ 5 (ngày 8 tháng 1 năm 1853). Ngoài ra, đình còn lưu giữ nhiều hiện vật quý được làm bằng gỗ, chạm khắc tinh tế các đề tài như: long - lân - quy - phụng, hạc - rùa, hoa - lá - quả... Hàng năm, đình Linh Đông tổ chức một ngày lễ lớn đó là lễ Kỳ Yên. Lễ Kỳ Yên diễn ra trong hai ngày 15 và 16 tháng 10 âm lịch với mục đích cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa vụ bội thu. Trong những ngày này, nhân dân vùng Linh Chiểu và du khách tấp nập về dự lễ cúng đình. Ngoài ra, đình còn tổ chức lễ Thượng Nguyên (15 tháng Giêng), lễ Trung Nguyên (15 tháng 7) và lễ giỗ Tiền hiền Tạ Dương Minh (tên húy là Huy, tên hiệu là Thủ Đức) vào ngày 19 tháng 6 âm lịch. Với những giá trị lịch sử - văn hóa và giá trị kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, đình Linh Đông được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật quốc gia ngày 4 tháng 11 năm 2020. Nguồn: Sở Văn Hóa Và Thể Thao TP Thủ Đức

TP Hồ Chí Minh 3213 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Phong Phú

Đình tọa lạc trên khu đất 4,2ha, tại khu phố 3, phường Tăng Nhơn Phú B, TP Thủ Đức. Ngoài những giá trị kiến trúc và tâm linh, đình còn là di tích lịch sử cách mạng. Đình Phong Phú được xây dựng từ cuối thế kỷ 19, khi thôn Phong Phú có tên trong tổng An Thủy, hạt Sài Gòn năm 1880. Đình đã trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, mặc dù vậy các cụ trong hội đình luôn giữ được liên lạc với cách mạng và đã có nhiều đóng góp suốt hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Năm 1993, đình Phong Phú được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa – cách mạng và được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đình được xếp hạng là di tích lịch sử – cách mạng vì ở góc vườn, có một căn hầm bí mật để giấu cán bộ cách mạng. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) đình Phong Phú là nơi tập trung quân, nơi dừng chân của cán bộ cách mạng vùng Thủ Đức. Đình còn là nơi cung cấp tiền bạc, lương thực, thuốc men, dầu hôi… thường xuyên cho cán bộ cách mạng. Năm 1960, toàn bộ hội đình bị bắt vì bị tình nghi có tiếp tế và quan hệ với cách mạng. Ở trong tù, mặc dù bị tra khảo, các cụ cương quyết không khai. Khi ra tù, các cụ lại tiếp tục con đường ủng hộ cách mạng. Đình Phong Phú có hai lớp cổng. Lớp thứ nhất có hai cửa tả – hữu, ở giữa tạc bia Ông Hổ. Lớp cổng thứ hai xây theo kiểu tam quan, chính giữa là tượng Bạch Mã. Sau tam quan là bàn thờ Thần Nông và hòn non bộ. Hai bên hòn non bộ có miếu Ngũ Hành Nương Nương và tượng Ông Hổ. Võ ca được đặt chính giữa đối diện với chính điện. Theo trục dọc công trình, chính giữa có tiền điện, chánh điện, nhà túc, nhà bếp. Hai bên chính điện là nhà truyền thống và nhà rửa rau quả. Trên nóc mặt tiền có trang trí lưỡng long tranh châu cẩn mảnh sành nhiều màu. Các họa tiết trang trí vẫn là những đề tài quen thuộc ở các đình miền Nam như: long, lân, quy, phụng, bát tiên, cá hóa long. Trong đình, tất cả các bức hoành phi, câu đối đều được sơn son thiếp vàng rực rỡ. Điểm đặc biệt của ngôi đình là bàn thờ lộ thiên được đặt phía trước miếu Ngũ Hành Nương Nương. Thời kháng chiến, nơi đây dùng thắp nhang làm ám hiệu khi có quân địch xuất hiện. Vào ngày mùng Một, Rằm và lễ Kỳ Yên, người đến viếng đình rất đông, nhiều nhóm học sinh đến tìm hiểu giá trị lịch sử và kiến trúc của đình. Lễ Kỳ Yên, còn là lễ cầu an, tế Thành Hoàng lớn nhất trong năm của những ngôi đình thần ở Nam bộ. Đây cũng là lễ chính của đình Phong Phú, diễn ra vào ngày 14 đến 16 tháng 11 Âm lịch thường niên. Nếp sinh hoạt văn hóa này có từ rất lâu và hằng năm, cứ đến dịp lễ, hàng nghìn người dân địa phương nô nức đến đình. Mọi người thắp nén hương thành kính cầu an và tưởng nhớ đến những chiến sĩ cách mạng từng trú ngụ nơi này Rất nhiều người dân gắn bó với ngôi đình như mạch sống, như kỷ niệm thiêng liêng. Nhiều thế hệ Nhân dân ở đây ra sức gìn giữ ngôi đình và những tinh hoa văn hóa. Năm 1997, Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng đến viếng đình, thắp nén hương tri ân những chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Ngôi đình được các bậc tiền bối khẳng định là ngôi đình nổi tiếng nhất Thành Phố và ở vùng Nam Bộ. Đình Phong Phú là nơi tâm linh, thu hút hàng triệu khách thập phương đến thăm viếng, nhất là mỗi dịp xuân về, Tết đến. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa TP Thủ Đức

TP Hồ Chí Minh 3514 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Xuân Hiệp

Đình thần Xuân Hiệp, tọa lạc tại Đường 5, khu phố 2, phường Linh Xuân, TP Thủ Đức. Đình thần Xuân Hiệp tên cũ là Đình Xuân Trường có thể được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1818 đến năm 1885. Từ ngày được xây dựng đến nay, đình đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Kiến trúc của Đình thần Xuân Hiệp được làm bằng vật liệu gỗ. Nhân vật chính được thờ cúng ở đình là Thần Thành hoàng bản cảnh. Vị thần này được vua Bảo Đại của triều Nguyễn ban cho các mỹ tự “khai nguyên diệu hóa chính đạo đại vương tôn Thần” vào ngày 27/7/1934. Ngoài thờ Thần Thành hoàng. Đình còn thờ Hội đồng chư thần như: Tả ban, Hữu ban. Ngũ Thổ, Ngũ Cốc, Tiền hiền, Hậu hiền, Tiên sư, Thần nước, Thần hổ, Bạch Mã. Các hiện vật có giá trị lịch sử gồm: 1 sắc phong bằng chất liệu giấy Dó (giấy bản) do vua Bảo Đại ban cho Thần Thành hoàng bản cảnh thôn Xuân Hiệp, tổng An Điền, tỉnh Gia Định ngày 27/7/1943; 1 chiếc mõ dài; 6 dàn lỗ bộ – đồ thờ cúng phỏng theo vũ khí như: gậy, dùi đồng, long đao, xà mâu, búa, rìu (gồm 40 cây), cán gỗ, lưỡi đồng; 2 kiếm bằng đồng; 3 cặp hạc đứng trên lưng rùa, bằng chất liệu gỗ; 1 chiếc chiêng đồng. Các hiện vật có giá trị nghệ thuật gồm: 14 bức hoành phi bằng gỗ được chạm nổi, chạm chìm tinh tế, đề tài lưỡng long tranh châu, lưỡng long triều nhật, cúc dây, chữ Hán; 7 cặp liễn đối bằng gỗ được chạm nổi, chạm chìm tinh tế đề tài long – vân, cúc dây, chữ Hán; 6 bao lam bằng gỗ được chạm thủng, chạm nổi, chạm chìm tinh tế, đề tài lưỡng long triều nguyệt, nho – sóc, tứ linh, khỉ – đào; 9 khám thờ và bàn thờ bằng gỗ được chạm nổi, chạm chìm tinh tế, đề tài lưỡng long triều nguyệt, tứ linh, chim và hoa; 1 ngựa xích thố bằng gỗ; 1 ngai Thần bằng gỗ; 1 cặp hạc đứng trên lưng rùa bằng đồng; 1 bình hoa gốm; 14 bộ tam sự (lư hương và cặp chân đèn) bằng đồng. Kiến trúc tổng thể của Đình thần Xuân Hiệp được xây dựng theo kiểu chữ tam, gồm 3 khối nhà chính là: tiền điện; chính điện và hậu điện (chung một khối); nhà bếp và nhà khách. Cả ba khối nhà này nằm trên một trục dọc. Ở bên phải sân đình là miếu Ngũ hành nương nương, miếu được xây dựng vào năm 1968. Phía sau miếu Ngũ hành là miếu Thủy Long xây dựng vào năm 1937 với mục đích thờ Thần nước suối Xuân Trường. Đối diện với tiền điện là khối nhà thứ nhất. Võ ca được xây dựng theo kiểu “tứ trụ” với mục đích làm sân khấu để hát bội vào những dịp cúng kỳ yên của đình. Khối nhà thứ hai là tiền điện. Với kiến trúc kiểu “ba gian hai chái” nên tiền điện có ba cửa ra vào cho ba gian, ba cửa này chỉ mở rộng vào dịp cúng lễ. Ngày thường muốn vào đình phải đi bằng cửa hông ở hành lang bên phải. Bên trong tiền điện được bố trí các khám thờ và bàn thờ: ngay trước cửa ra vào gian giữa là bàn thờ Hội đồng nội. Khối nhà thứ ba là chính điện và hậu điện. Khối nhà này được xây dựng theo kiểu “tứ trụ”, mái lợp ngói vẩy cá vào năm 1946 thay cho mái ngói âm dương đã mục nát. Trên gờ nóc của mái gắn tượng gốm lưỡng long tranh châu. Đình thần Xuân Hiệp hàng năm có một kỳ lễ chính là Lễ Kỳ yên (cầu an), kỳ lễ này diễn ra trong 2 ngày 15 và 16 tháng 11 âm lịch. Với những giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, Đình thần Xuân Hiệp đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia ngày 15/12/2004. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa TP Thủ Đức

TP Hồ Chí Minh 3572 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Trường Thọ

Đình thần Trường Thọ tọa lạc tại khu phố 8, phường Trường Thọ, thành phố Thủ Đức. Đình Trường Thọ thờ Thần Thành Hoàng bổn cảnh với mong muốn Thần Thành Hoàng sẽ phù hộ cho dân chúng trong làng. Nhân vật Thần Thành Hoàng theo truyền khẩu chính là Châu Văn Tiếp – một vị tướng triều Nguyễn. Bản chính sắc phong đã bị Pháp đốt, nay đình chỉ còn giữ lại bản sao. Không chỉ thờ Thần Thành Hoàng, đình còn thờ các vị: Tả ban và Hữu ban, Hội đồng nội, hội đồng ngoại, Tiền hiền và Hậu hiền, Tiên sư, Thần Nông, Ngũ Hành, Bạch Hổ, Thanh Long, Bạch Mã… Về mặt kiến trúc: đình thần Trường Thọ trông vô cùng uy nghi giữa những hàng cây với kiến trúc riêng biệt. Đình được xây dựng theo kiểu trùng thiềm điệp ốc bao gồm tiền điện, chánh điện, hậu điện, nhà trù và nhà kho với tổng diện tích 518 mét vuông. Từ cổng tam quan đến khuôn viên của mặt tiền đình, thoạt tiên ta sẽ gặp hình ảnh miếu thờ Thần Nông và cả đàn Bạch Mã, tất cả đều được xây bằng xi-măng. Đình được thiết kế theo kiểu ba gian hai chái, toàn bộ mái đình được 48 cột tròn chống đỡ, các cột đều thuộc loại gỗ quý, đường kính mỗi cột 30cm, cột cao từ 4m đến 6m, chân kê đá xanh. Cấu trúc xây dựng theo kiểu dân dụng nhưng rất kĩ thuật, lấy tứ trụ làm điểm tựa đặt giữa chánh điện chịu lực. Các đầu kèo đâm trính, nêm chặt bằng gỗ giữ bộ giàn trò chống gió bão, lại chia lực giữa chánh điện với tiền điện và hậu điện. Đặc biệt các kèo được chạm khắc theo đề tài “Long tọa môn”, đuôi rồng hướng về phía mặt tiền, đầu rồng chạm trổ trên đầu kèo ở hậu sở. Nghệ thuật chạm trổ đầu và đuôi rồng cũng như các hoa văn ở kèo, dầm được thể hiện hết sức tinh vi. Những đầu kèo đâm trính xuyên cột để giữ thế cân bằng là phong cách dân gian rất hiếm. Tiền điện có nhiều hiện vật thờ cúng rất quý hiếm, có ba bàn hương án thờ hội đồng nội, ngoại trên có các bài vị và một bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh với hàng chữ: “Thánh thọ vô cương” Khu hậu điện nối liền với chánh điện. Kiến trúc nổi bật ở hậu điện là các đầu kèo xuyên qua cột gỗ với các đầu rồng chạm trổ rất điêu luyện thể hiện rồng trầm ở đình (long ngọa triều), ngụ ý điềm lành tỏa khắp đình. Chân mỗi cây cột gỗ đều được kê các hòn đá tảng xanh tròn. Ở bàn thờ giữa có bức hoành phi được treo phía trên với hàng chữ: Khai sáng đại huân (người khai sáng có công to). Hai bên có hai bàn thờ viên quan, hương chức, trên đặt nhiều bài vị. Phía trên hai bàn thờ cũng có năm bức hoành phi ghi: Phong điều vũ thuận – Hưởng vu thành – Thượng an hạ thực – Tiền đại viên quan – Tiền đại hương chức. Hậu đình là nơi hội họp trước khi vào lễ của ban Trị sự đình và cũng là nơi đãi khách trong các ngày lễ lớn. Tiếp giáp với hậu đình có dãy nhà độc lập. Nơi đây dùng làm nhà bếp và nhà kho chứa những vật dụng chén, ly, bát, tách nhằm phục vụ lễ bái. Đình Trường Thọ đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia ngày 30/12/2002. Đình Trường Thọ là một cơ sở tín ngưỡng dân gian có giá trị về mặt lịch sử cũng như về mặt kiến trúc nghệ thuật. Từ khi thành lập cho đến nay, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đình vẫn là ngôi nhà chung của người dân Trường Thọ. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa TP Thủ Đức

TP Hồ Chí Minh 3976 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Phước Tường

Chùa Phước Tường là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận cấp bằng ngày 27/7/1993 và công nhận là Di Tích kiến trúc nghệ thuật ngày 7/1/1993. Chùa Phước Tường là một ngôi chùa cổ của Thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc ở đường 102, Khu phố 7, Phường Tăng Nhơn Phú A, thành phố Thủ Đức. Chùa theo hệ phái Bắc tông do thiền sư Linh Quang – Phật chiếu (1736 – 1788), đời thứ 35 thiền phái Lâm Tế khai sơn vào năm 1741. Đến năm Giáp Ngọ (1834) đời Minh Mạng, trụ trì đời thứ tư là Từ Minh, dời chùa đến địa điểm hiện nay, tái thiết quy mô. Chùa Phước Tường nằm trên khu đất khá rộng, gần 30.000 m², bao phủ bởi nhiều cây cổ thụ to xanh mát. Trong khuôn viên chùa có nhiều tượng Phật và điện thờ bố trí xung quanh sân chùa như tượng Phật Thích Ca dưới gốc Bồ Đề, điện thờ Tam Thế Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Bảo tháp…Chùa được trùng tu nhiều lần dưới thời nhà Nguyễn. Kiến trúc ngôi chùa ngày nay là kết quả của những đợt trùng kiến vào những năm 1930, năm 1952 và năm 1991. Chùa được xây dựng theo lối chùa cổ Nam Bộ thuần túy, những dãy nhà được xây dựng theo hình chữ L ngược có trục chính và trục phụ. Trục chính là một tập thể qui mô, kiến trúc bao gồm: chánh điện, tổ đường, giảng đường, sân thiên tĩnh, tăng đường, phần cuối của trục chính là trai đường. Trục phụ gồm đông lang nằm bên trái trục chính, được sử dụng để làm nhà kho và bếp. Tiền điện chùa có bố trí tượng Hộ Pháp, Kim cang và các bao lam được chạm theo đề tài tùng hạc. Tác phẩm điêu khắc độc đáo có giá trị lịch sử là bức hoành phi treo ở tiền điện mang dòng chữ “Phước Tường Tự” có niên đại từ đời vua Minh Mạng 1834. Tiếp nối tiền điện là chánh điện. Chánh điện là khu vực thờ cúng chủ yếu và được trưng bày khá nhiều tượng Phật cổ. Chính giữa chánh điện là một bao lam lớn, được chạm theo đề tài tứ linh: Long – Lân – Quy – Phụng. Trước chánh điện có hàng cột chạm khắc thân hình rồng vàng uốn lượn theo những câu đối sơn son thiếp vàng. Sát với chánh điện là Tổ đường, nơi đây có đặt bàn thờ tổ, thờ tượng Tổ sư Đạt Ma và bài vị của các vị sư trụ trì của chùa, bố trí bàn thờ 9 bà mẹ Thai Sanh mà dân gian thường gọi là “Mẹ sinh mẹ độ” và một đôi liễn “Long giáng” bằng gỗ. Chùa Phước Tường cũng như các chùa ở Nam Bộ đều bày trí theo công thức “Tiền Phật hậu Tổ”, chùa có 53 pho tượng, 13 bức hoành phi, câu đối và nhiều bao lam, thần vọng, bài vị. Tượng thờ có nhiều loại, có tượng bằng đá, bằng đất, nhiều nhất là bằng gỗ. Một số tượng gỗ ở chùa tạc vào đầu thế kỷ 19, còn nét thô phát nhưng có giá trị lớn của cổ vật niên đại hàng trăm năm và có nhiều câu đối văn hay, chữ đẹp, chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng rực rỡ. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa TP Thủ Đức

TP Hồ Chí Minh 3903 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Hội Sơn

Chùa Hội Sơn, tọa lạc tại số 1A1 đường Nguyễn Xiển, Phường Long Bình, thành phố Thủ Đức. Ngôi chùa nằm trên một ngọn đồi nhỏ có độ cao khoảng 15m so với mực nước biển. Theo nhiều tài liệu ghi chép thì Chùa Hội Sơn ban đầu được một vị thiền sư có tên Khánh Long khai lập và trụ trì vào cuối thế kỷ 18, do vậy chùa còn có tên gọi là chùa Khánh Long. Sách Gia Định Thành Thông Chí giới thiệu về chùa: “Ở đuôi dãy núi Châu Thới về phía Bắc, nứt ra một chi chạy đến địa phận thôn Long Tuy, rồi nổi lên gò cao bằng phẳng rộng rãi; ở trên núi có hang hổ và suối nước, dân chúng ở dọc theo đó. Trên núi có chùa Hội Sơn là chỗ Thiền sư Khánh Long sáng tạo để tu hành…”. Trải qua theo thời gian, Chùa Hội Sơn dần dần có dấu hiệu bị hư hỏng và xuống cấp. Năm 1938, Ni sư Thích Nữ Như Thanh và đệ tử là Thích Nữ Như Tiên đã tiến hành tôn tạo, sửa chữa và nâng cấp thêm một số công trình phụ bên trong chùa. Tháng 7/2012, hỏa hoạn xảy ra tại chùa Hội Sơn đã thiêu rụi toàn bộ ngôi Chánh điện bằng gỗ của chùa. Đến năm 2015, dự án phục dựng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia chùa Hội Sơn được thực hiện. So với diện tích nền chánh điện cũ, chiều ngang nền mới được nới rộng thêm 4m. Theo đó, chiều cao và chiều dài cũng được nới rộng theo tỷ lệ tương ứng với thiết kế tổng thể để phục vụ cho việc sinh hoạt tu học của chư Tăng, Phật tử. Mặc dù có tuổi đời trên 200 năm, trải qua nhiều lần sửa chữa và xây dựng mới nhưng tới nay chùa Hội Sơn vẫn bảo toàn nguyên vẹn khối kiến trúc cơ bản của một cổ tự như: mái ngói âm dương, nền lót gạch màu,… Sân chùa được thiết kế vô cùng rộng rãi để bài trí một số tượng phật, bồ tát. Mặt trước của chánh điện là nơi đặt pho tượng Phật Thích Ca, hai bên chánh điện cũng được nhà chùa đặt Tượng Phật Di Lạc và Tượng Phật bà Quan Âm. Theo đánh giá của các chuyên gia nghiên cứu lịch sử thì Chùa Hội Sơn còn có khá nhiều di chỉ khảo cổ chưa được khai quật. Di chỉ này nằm ngay dưới khuôn viên 18.000 m² ở trên một vùng phù sa cổ trong đó có một lớp đá ong dày 4m, được phủ lên bởi một lớp đất mỏng. Do tác động của quá trình bào mòn, rửa trôi và chịu ảnh hưởng của các điều kiện thời tiết nên các hiện vật này đã dần lộ thiên. Hiện theo những gì đã thống kê được thì có khoảng 89 công cụ bằng đá và rất nhiều mảnh gốm có niên đại hàng ngàn năm. Hiếm có ngôi chùa nào đem lại nhiều giá trị lịch sử như Chùa Hội Sơn. Bên cạnh các món đồ kể trên thì chùa còn lưu giữ rất nhiều pho tượng cổ cùng các hiện vật quý hiếm khác Vì những giá trị lịch sử và phong cảnh nên thơ tuyệt đẹp, ngày 7/1/1993, Bộ Văn hóa và Thông tin đã công nhận chùa Hội Sơn là một di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Hiện nay, chùa được đánh giá là ngôi chùa có thắng cảnh đẹp nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hàng năm, chùa tiếp đón hàng ngàn du khách, phật tử tới cúng lễ và tham quan chùa. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa TP Thủ Đức

TP Hồ Chí Minh 3328 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Mộ Tiền hiền Tạ Dương Minh

Mộ Tiền hiền Tạ Dương Minh tọa lạc tại đường 10, khu phố 4, phường Linh Chiểu, TP Thủ Đức. Mộ Tiền hiền Tạ Dương Minh là một ngôi mộ cổ có kiến trúc theo dạng trâu phục với hai vòng tường trong, ngoài bao quanh, gắn liền phần chân mộ là tấm bia đá cao 42cm, rộng 32cm và dày 4cm. Trên bia khắc 37 chữ Hán, chia thành một hàng ngang và 3 hàng dọc Theo thông tin trên bia mộ Tiền hiền Tạ Dương Minh ghi: mộ ông họ Tạ, tên húy là Huy, tên hiệu là Thủ Đức. Mộ Tiền hiền Tạ Huy – Thủ Đức – Tạ Dương Minh có diện tích xây dựng 108m2 với 2 vòng tường đá ong bao quanh, bình phong tiền, bình phong hậu và ngôi mộ ở giữa, vật liệu để xây mộ là đá ong và gạch, mặt ngoài được trát bằng một lớp vữa cổ. Phía trước bia mộ là bệ hiến tế, bệ được xây bằng gạch, là nơi dùng để đặt lư hương và các đồ cúng tế, lễ vật. Di tích mộ Tiền hiền Tạ Huy – Thủ Đức – Tạ Dương Minh do hương chức thôn Linh Chiểu Đông trùng tu và lập bia mộ vào năm Canh Dần – 1890. Di tích không có hiện vật mà chỉ có các thành phần kiến trúc tạo nên ngôi mộ là bia mộ, các bức bình phong và 2 lớp tường bao xung quanh. Mộ Tiền hiền Tạ Huy – Thủ Đức – Tạ Dương Minh là di tích có giá trị lịch sử – văn hóa – kiến trúc nghệ thuật, là cơ sở tín ngưỡng dân gian và là nơi giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn cho thế hệ trẻ. Về mặt kiến trúc nghệ thuật, ngôi mộ là di tích mộ cổ tiêu biểu của những năm cuối thế kỷ 19, được coi là còn tương đối nguyên vẹn trên địa bàn TP Thủ Đức với hai vòng tường bao xung quanh, hai bình phong hậu, bình phong tiền, hai cửa ngoài, hai cửa trong. Về mặt lịch sử – văn hóa, ngôi mộ còn bia mộ ghi rõ tên húy, tên hiệu, ngày mất và công lao của người tạ thế, cùng với đó là sự thừa nhận công lao tiền nhân của hậu thế, nên rất có giá trị về mặt lịch sử mở cõi dựng nước, giữ nước. Về mặt tín ngưỡng dân gian, ngôi mộ là nơi để Nhân dân và tiểu thương địa phương thường xuyên lui tới cúng tế nhằm tưởng nhớ công đức của người khai ấp, lập chợ, thể hiện truyền thống nhớ về nguồn cội của người dân Thủ Đức. Về mặt giáo dục truyền thống, Mộ Tiền hiền Tạ Huy – Thủ Đức – Tạ Dương Minh là minh chứng trực quan cho sự tồn tại của một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng đối với địa phương. Là nơi để người dân tìm hiểu về nguồn gốc văn hóa, lễ hội và địa dư của Thủ Đức xưa và nay. Đây cũng là nơi góp phần làm phong phú thêm truyền thống văn hóa dân gian, là nơi giúp người dân thêm yêu mến quê hương và tri ân công đức của những bậc tiền nhân. Mộ Tiền hiền Tạ Huy – Thủ Đức – Tạ Dương Minh đã được công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố ngày 27/7/2007. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa TP Thủ Đức

TP Hồ Chí Minh 3528 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

TRẬN ĐỊA PHÁO VÀ HẦM THỦY LÔI NÚI LỚN

Hầm thủy lôi trên Núi Lớn (thuộc địa bàn phường 5, TP Vũng Tàu ngày nay) do phát xít Nhật xây dựng vào năm 1944. Đây là nơi làm kho chứa vũ khí đánh thủy của quân Nhật. Tuy nhiên, với tinh thần chiến đấu gan dạ, quân ta đã nhiều lần đột nhập vào hầm thủy lôi, lấy vũ khí của địch để chế tạo vũ khí đánh địch. Tháng 7/1941, Nhật buộc Pháp phải ký hiệp ước “Cam kết phòng thủ chung Đông Dương” với Nhật. Với hiệp ước này, Nhật đã chỉ huy Pháp hoàn toàn về mặt quân sự. Đến tháng 10/1941, Nhật đổ bộ vào Vũng Tàu, nhanh chóng chiếm vị trí quan trọng trên Núi Lớn án ngữ cửa biển Vũng Tàu – Cần Giờ. Từ năm 1941-1945, quân phát xít Nhật cho xây dựng nhiều lô cốt, hầm ngầm, hầm chứa đạn, thủy lôi ở lưng chừng Núi Lớn ven theo bờ biển nay thuộc phường 5, TP.Vũng Tàu. Tuy hầm thủy lôi đơn thuần chỉ là kho dùng để cất giữ vũ khí quân sự của quân Nhật, nhưng cũng không kém phần công phu trong quá trình xây dựng. Hầm thủy lôi được xây dựng vào năm 1944, sau 4 tháng thì hoàn tất. Hầm được xây dựng dưới một thung lũng núi kín đáo, xây theo hình vòm, bên trong hầm là vách bê tông cốt thép dày 1m, cao 2,7m. Mặt trước cửa hầm xây đá cao 7m, dài 20m. Các hầm được bố trí thông nhau theo hình chữ U. Hầm chủ yếu tích trữ mìn, thủy lôi để phòng thủ bờ biển, tạo nên một trận địa dưới nước án ngữ cửa biển Vũng Tàu-Cần Giờ. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, Nhật đầu hàng quân đồng minh nên đã gỡ những quả thủy lôi dưới biển đưa lên núi cho vào hầm cất giữ và gài chất nổ bên ngoài. Sự thất thế của Nhật trên chiến trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam từng bước giành thắng lợi. Trong những năm kháng chiến chống Nhật, chống Pháp lâu dài và gian khổ, quân dân Vũng Tàu đã cùng với quân dân Biên Hòa, Bà Rịa không những đánh bại những cuộc càn quét dài ngày của địch vào chiến khu Đ, rừng Sác mà còn tiến sâu vào hậu địch đánh thắng nhiều trận oanh liệt. Trong thời kỳ chiến tranh, những trận đột kích thành công vào hầm thủy lôi Núi Lớn là những chiến công của quân dân Vũng Tàu. Từ vùng Bà Trao (núi Nứa - xã đảo Long Sơn), lực lượng vũ trang và an ninh của ta dựa vào dân đã nhiều lần đột nhập vào hầm đạn và hầm thủy lôi núi Lớn, chiếm lấy khí tài quân sự, vũ khí của địch để trang bị cho quân ta. Việc lấy thủy lôi trở thành một chiến dịch với sự tham gia của hàng trăm người, diễn ra vào buổi tối và hết sức bí mật. Lực lượng ta chia thành các tổ: ám hiệu, canh gác, tháo gỡ lựu đạn, chuyển tải thủy lôi, nuôi quân… Theo kế hoạch, khi có ám hiệu khói lửa, các chuyến ghe của quân dân ta ở Bà Trao từ từ cập sang cảng Bến Đá -Vũng Tàu để tiếp nhận và vận chuyển vũ khí lấy được của địch từ hầm thủy lôi. Tổ canh gác chia làm 2 nhóm cảnh giới từ đầu dốc Bến Đá và gần khu vực tượng Phật Bà Quan Âm bây giờ. Tổ tháo gỡ lựu đạn sẽ cùng với đặc công, du kích, cảm tử quân Thắng Nhì vào hầm thủy lôi, người soi đèn, người gỡ lựu đạn mở cửa, khi lấy xong gài lựu đạn lại như cũ. Nhóm chuyển tải thủy lôi ra ngoài gồng gánh nhau trèo lên sườn núi trong đêm tối mịt mù, khiêng thủy lôi xuống núi, chuyển thẳng ra ghe về bến an toàn. Tổ nuôi quân gồm các bà, các chị lo vận chuyển thức ăn và dầu đốt đèn cho mọi người tham gia các trận đột kích. Cuối tháng 6/1947, sau khi quân địch (quân Pháp tái chiếm lần thứ 2) rút khỏi bốt Bến Đình, các hoạt động đột kích hầm thủy lôi của quân dân ta dễ dàng hơn. Lực lượng của ta đã vận chuyển trung bình một lần 2 trái thủy lôi ra khỏi hầm, mỗi trái nặng hơn 100kg. Trong khoảng thời gian từ năm 1945 - 1954, quân ta đã bí mật lấy khoảng 60 trái thủy lôi để chế tạo bom, mìn làm vũ khí tiêu diệt địch. Ngày 4/8/1992, hầm thủy lôi Núi Lớn được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử.

TP Hồ Chí Minh 3446 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di tích Lịch sử cách mạng nhà tù Côn Đảo

Khu di tích lịch sử Côn Đảo (Nhà tù Côn Đảo) thuộc huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, gồm hệ thống nhà tù ở Côn Đảo và các nghĩa trang thuộc hệ thống nhà tù này. Trong lịch sử, chính quyền thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã cho xây dựng 127 phòng giam, 42 xà lim và 504 phòng giam biệt lập - “chuồng cọp” tại khu vực Côn Đảo. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất (1975), chức năng của hệ thống nhà tù ở Côn Đảo bị giải thể. Năm 1979, Khu di tích lịch sử Côn Đảo đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, với 17 di tích thành phần. 1. Nhà Chúa Đảo Khu vực này từng là nơi ở và làm việc của 53 đời Chúa Đảo, trong khoảng thời gian hệ thống nhà tù ở Côn Đảo duy trì hoạt động. Sau ngày giải phóng (1975) đến nay, nhà Chúa Đảo được sử dụng làm nơi trưng bày của Khu di tích lịch sử Côn Đảo. 2. Cầu Tàu Cây cầu được khởi dựng từ năm 1873. Đây cũng là nơi chứng kiến nỗi cực nhục đầu tiên của những người bị đưa ra đảo tù đày. Con số 914 được đặt tên cho cầu cũng là số tù nhân đã bị “ngã xuống” vì lao dịch, tai nạn trong quá trình lao động khổ sai để xây cầu. 3. Trại 1 Trại 1 còn được biết đến qua các tên gọi khác, như Banh 3, Lao 3, Trại Bác Ái, trại Phú Thọ. Trại được xây dựng năm 1928, trên tổng diện tích khoảng 12.700m2. Trong đó, diện tích phòng giam là 1.200m2, bao gồm 3 dãy khám giam, nhà y tế, nhà bếp và nhà ăn, phòng giam tập thể và phòng biệt lập, dãy nhà cầm cố (giam cầm). 4. Trại 2 Trại còn có các tên gọi khác, như Banh 1, Lao 1, Trại Cộng Hòa. Đến tháng 11 năm 1974, trại này được gọi là trại Phú Hải. Trại 2 được xây dựng từ năm 1862 và được chỉnh trang kiên cố vào năm 1896, với diện tích 12.040m2, gồm 02 dãy khám giam, 20 xà lim, bệnh xá, nhà nguyện, giảng đường, khu đập đá, câu lạc bộ, nhà Giám thị... , được bao bọc bởi bốn bức tường cao hơn 4m, xung quanh bố trí nhiều bốt gác. Đây là trại giam lớn và cổ nhất ở Côn Đảo. 5. Trại 3 Trại còn được biết đến qua các tên gọi khác, như Banh 2, Lao 2, Trại Nhân Vị, Trại 3, Trại Phú Sơn. Trại được xây dựng năm 1916, nằm cạnh Banh 1, với diện tích 13.228m2, gồm 13 khám lớn, 14 xà lim, 1 phòng hớt tóc, miếu thờ, phòng y tế, nhà bếp, phòng Giám thị, câu lạc bộ và khuôn viên cây xanh, bao quanh là hệ thống tường đá (cao 4m) và nhiều bốt gác. 6. Trại 4 Có tổng diện tích 5804m2, gồm 8 phòng giam, nhà bếp, nhà kho, bệnh xá, có tường đá dày, cao bao quanh. 7. Trại 5 Có tổng diện tích 3.594m2, với 12 phòng giam tập thể, được chia làm 3 dãy (mỗi dãy 4 phòng), khu nhà bếp, có tường đá dày, cao khoảng 4m bao quanh. 8. Trại 6 Tức Trại Phú An, có diện tích 42.140m2, gồm khu A và khu B. Mỗi khu đều có hai dãy, gồm 10 phòng, 4 xà lim, nhà bếp, bệnh xá, nhà kho. Khu trại này được bao bọc bởi hai lớp rào, có cổng ngoài và cổng trong. 9. Trại 7 Còn có tên gọi khác là Trại Phú Bình, hay Chuồng cọp kiểu Mỹ. Trại có diện tích 25.788m2, với 8 khu trại giam (A, B, C, D, E, F, G , H), mỗi khu đều có 48 chuồng cọp, nhà kho, nhà bếp, văn phòng Giám thị, bệnh xá. Quanh trại được bao bọc bởi hàng rào dây thép gai và tường bê tông. 10. Trại 8 Còn được gọi là Trại Phú Hưng, gồm 10 khám giam, được chia thành 2 dãy, cùng các công trình phụ, như nhà Giám thị, vọng gác. Bao quanh trại là hệ thống hàng rào dây thép gai. 11. Trại 9 Khi Mỹ - Ngụy đang cho đổ bê tông nền, đúc cột dựng trại, thì Hiệp định Paris được ký kết nên trại này đã bị bỏ dở. 12. Phòng điều tra Đây là nơi làm việc và lưu trữ hồ sơ hỏi cung. Mọi tù nhân trước khi được nhập giam, đều bị hỏi cung tại phòng này. 13. Cầu Ma Thiên Lãnh Từ năm 1930 - 1945, thực dân Pháp đã cho mở một nhánh đường đến Sở Ông Câu để tiện cho việc kiểm soát tù vượt ngục. Cầu mới xây dựng được 2 mố, mỗi mố cao khoảng 8m. Tên cầu do tù nhân lấy tên ngọn núi Ma Thiên Lãnh ở Triều Tiên để đặt. 14. Khu biệt lập Chuồng Bò Khu vực này là nơi tù nhân lao động khổ sai, đồng thời là nghĩa địa của tù nhân. “Bãi sọ người” tại đây chính là nghĩa địa đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo, tiếp đến là nghĩa địa Hàng Keo, nghĩa địa Hàng Dương. 15. Lò Vôi Đây là chứng tích điển hình về chính sách bóc lột sức lao động một cách dã man, cùng với chế độ nhà tù hà khắc, thâm độc, nhằm dập tắt ý chí của những người Việt Nam yêu nước bị tù đày tại Côn Đảo. 16. Nhà Công Quán Xây dựng cuối thế kỷ 19, diện tích 850m2, là nơi dừng chân của nhạc sĩ người Pháp: Charles Camille Saint Saens - Danh nhân văn hóa thế giới. Tại đây Ông hoàn tất 3 chương cuối vở nhạc kịch bất hủ Brunchida. 17. Nghĩa trang Hàng Dương Có diện tích khoảng 20 ha. Đây là nơi yên nghỉ của hàng vạn chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Nam yêu nước đã lần lượt hy sinh dưới ách tù đày, khổ sai tàn bạo của bọn thực dân và đế quốc. Năm 1992, di tích này đã được đầu tư tôn tạo và chia thành 4 khu: - Khu A: gồm 688 ngôi mộ (có 7 mộ tập thể), với 86 mộ có tên và 602 mộ khuyết danh. - Khu B: gồm 695 ngôi mộ (có 17 mộ tập thể), với 275 mộ có tên và 420 mộ khuyết danh. - Khu C: gồm 372 ngôi mộ (có 1 mộ tập thể), với 329 mộ có tên và 43 mộ khuyết danh. - Khu D: gồm 148 ngôi mộ, với 11 mộ có tên và 137 mộ khuyết danh. Nhà tù Côn Đảo là một di tích đặc biệt (di tích nhà tù). Đây là nơi tập trung nhất hệ thống cai trị tù khét tiếng của Pháp và Mỹ, điển hình về chế độ cưỡng bức, giam cầm, hành hạ và tàn sát các chiến sỹ cách mạng, tù nhân lao động khổ sai đến kiệt sức; là nơi mà kẻ thù hung bạo phải run sợ trước khí phách, khí tiết cách mạng và niềm lạc quan của người tù yêu nước. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 10/5/2012. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

TP Hồ Chí Minh 3182 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích Thích Ca Phật Đài

Nằm trên đường Trần Phú, con đường vòng quanh ôm Núi Lớn, lên Bến Đá và Bến Đình. Di tích Thích Ca Phật Đài gắn liền với vẻ đẹp của Bến Đá và cảnh quan thiên nhiên hướng Đông bắc Núi Lớn. Nếu Bến Đá là cảng cá sầm uất, nhộn nhịp thì Thích Ca Phật Đài là nơi tịch liêu, đượm vẻ huyền diệu của chốn thiên thai. Vùng núi Thích Ca Phật Đài trước đây cây cối tươi tốt không có người sinh sống. Khoảng năm 1957, ông Lê Quang Vinh, một công chức thời Pháp thuộc, bất đắc chí lên đây dựng chùa để tu hành, gọi là Thiền Lâm Tự. Năm 1962, Giáo hội Phật giáo nhận thấy Thiền Lâm Tự toạ lạc ở một vị trí có khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, là vùng đắc địa tụ kết khí thiêng, lại thuận tiện giao thông đi lại cho chư Tăng, Phật tử thập phương hành hương nên đã lập đồ án xây dựng quy mô Thiền Lâm Tự thành Thích Ca Phật Đài. Sau hơn 19 tháng xây dựng, ngày 15 tháng 2 năm Quý Mão (1963), Thích Ca Phật Đài được khánh thành với những công trình kiến trúc như ngày nay. Thích Ca Phật Đài là một quần thể kiến trúc điêu khắc tạo dựng theo sự tích cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni gắn với cảnh quan thiên nhiên hài hòa, sống động thành khu danh thắng đẹp mang nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử tôn giáo, là một trong những danh thắng thu hút nhiều khách du lịch nhất của Vũng Tàu. Vào Thích Ca Phật Đài, du khách đi qua tam quan, trên có bánh xe luân chuyển đạo lý nhà Phật gọi là Pháp luân với tám căm biểu tượng Trung đạo. Vòng ngoài có bốn núm biểu tượng cho Tứ diệu đế. Trên bốn cột của tam quan là bốn búp sen biểu tượng cho sự trong sạch, tinh khiết, thanh cao của nhà Phật. Toàn bộ khuôn viên Thích Ca Phật Đài được thể hiện trên triền núi như nửa vầng trăng, được chia thành ba cấp theo một hình tháp cao dần từ dưới lên. Bảo tháp mà du khách bắt gặp đầu tiên, sau khi bước lên hết cấp thứ nhất, là nơi ghi nhớ và tưởng niệm người đã có công dựng Thiền Lâm Tự: Nhà sư Giác Pháp tức quan phủ Lê Quang Vinh. Lối lên bậc thứ hai theo đường vòng cung nhỏ nhắn, bên trái là vách đá kỳ vĩ. Bên phải dõi tầm mắt đến tận Núi Nứa - Long Sơn và xa xa là cảng Dầu khí với những cần cẩu vươn cao nối liên với phố xá, nhà cửa và làng cá Bến Đình, Bến Đá ngay dưới chân núi. Thích Ca Phật Đài được bao phủ bởi màu xanh của nhiều loài cây cao vút. Gió biển thổi rì rào. Đi hết đường vòng cung, du khách tới độ cao 25m, không gian trải rộng ra trước mặt. Đây là khu vực của những công trình điêu khắc được xây dựng dựa theo những sự tích cuộc đời Đức Phật Thích Ca, từ khi Người ra đời đến khi nhập cõi Niết bàn. Bảo tháp Thích Ca Mâu Ni ở đây có tôn trí 13 viên Xá lợi Đức Phật, được đựng trong một hộp bằng vàng. Đây là niềm đại hạnh cho các Phật tử Việt Nam nói chung và Phật tử Vũng Tàu nói riêng. Bảo tháp ngọc Xá Lợi ở Thích Ca Phật Đài cao 17m vươn lên giữa sân hành lễ rộng khoảng 300m2, trên có búp sen. Lối lên Bảo tháp có đắp hình rồng, hai bên có đôi sư tử chầu tượng trưng cho Đại hùng - Đại lực. Dưới chân tháp có một thích án để thờ, trên khắc chữ: Nam mô Bồn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, (Hết lòng tôn kính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Dưới bốn cạnh chân Bảo tháp bát giác đặt bốn cái đỉnh lớn trong đặt bốn nắm đất thiêng được thỉnh từ nơi Ngài Đản sanh), nơi Ngài thành đạo), (nơi Ngài truyền đạo) và (nơi Ngài nhập Niết bàn) về đây. Thích Ca Phật Đài là một quần thề kiến trúc, điêu khắc với ý đồ diễn tả lại sự kiện chính trong cuộc đời Đức Phật. Nguồn: Giáo hội phật giáo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

TP Hồ Chí Minh 3134 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chùa Linh Sơn “Linh sơn Cổ tự”

Linh Sơn cổ tự còn có tên gọi khác là chùa Phật Vàng (người Pháp gọi là Golden Buddha Statue) được khởi dựng trên sườn Núi Nhỏ từ những năm đầu của thế kỷ 20. Năm 1919, người Pháp xây dựng các công trình hoa tiêu và hải đăng phục vụ cho công cuộc chinh phục thuộc địa, buộc nhà chùa phải di dời xuống chân Núi Nhỏ. Viện chủ Thích Minh Thường, nguyên hòa thượng trụ trì lâu năm ở Linh Sơn cổ tự kể rằng, ban đầu chùa được xây dựng bằng tre nứa, vách cót, lợp ngói âm dương. Khoảng cuối những năm 40 của thế kỷ trước, hương chức Đình Thắng Tam cung thỉnh hòa thượng Thích Trí Tịnh về trụ trì và quản lý chùa. Sau này, hòa thượng Thích Trí Tịnh đảm đương chức vụ Phó Pháp chủ, Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngài giao cho đệ tử là cố hòa thượng Thích Tịnh Viên (viên tịch năm 1995) trụ trì. Linh Sơn cổ tự được di chuyển về vị trí gần Đình Thắng Tam và xây dựng khang trang như hiện nay. Ngôi chùa tọa lạc tại địa chỉ 104, Hoàng Hoa Thám, phường 2, TP. Vũng Tàu, cách Bãi Sau khoảng 500m. Hai bên cổng chùa là bức tượng đôi rồng chầu theo phong cách lưỡng long tranh châu. Tiếp đến là những bậc tam cấp dẫn lên chính điện có 100 pho tượng Phật phết vàng. Trong đó, đặc sắc nhất là pho tượng Phật thờ trong chánh điện, cao 1,2m, được tạc bằng đá sa thạch, điêu khắc công phu, khéo léo với những chi tiết sống động, tạo nên khuôn mặt hiền từ, nhân ái của đức Phật, có thể coi là bảo vật. Hòa thượng Thích Tịnh Định, hiện đang tu tập tại chùa, cho biết pho tượng này đã được các nhà khảo cổ thẩm định là tượng Phật của người Chăm, có niên đại từ thế kỷ thứ VII sau công nguyên. Nguồn gốc của pho tượng cũng vô cùng kỳ bí. Người ta kể rằng cách đây khoảng 100 năm có đoàn thuyền ghe chài từ miền Trung vào đánh bắt cá ở vùng biển Bãi Trước. Trong một lần lên núi kiếm củi, lấy nước ngọt, họ phát hiện 2 pho tượng Phật bằng đá trên sườn Núi Lớn, gần Bãi Dâu. Dân địa phương biết tin vội kéo đến xem và cương quyết đòi giữ lại. Sau khi đàm phán với người dân địa phương, những người đánh cá miền Trung chấp nhận giao lại pho tượng lớn cho dân làng Thắng Tam rước về thờ ở Linh Sơn cổ tự, còn pho tượng nhỏ họ đem về miền Trung. Hiện nay pho tượng nhỏ được thờ tại một ngôi chùa ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Một pho tượng khác đáng chú ý cũng đang được thờ cúng ở Linh Sơn cổ tự là pho tượng Phật Di Lặc bằng đồng, được thỉnh về từ Nam Lào năm 1972. Linh Sơn cổ tự chia thành nhiều không gian khác nhau, với kiến trúc cổ xưa, có nhiều tranh, tượng điêu khắc, chạm trổ tinh tế, mô tả các câu chuyện trong kinh Phật. Xen giữa những bức tượng Bồ Tát, La Hán đặt trong khuôn viên chùa là hồ sen và những cây hoa sứ đại thụ tỏa hương thơm dịu nhẹ. Hàng năm, chùa thường tổ chức các lễ cầu an, cầu siêu vào dịp Tết Nguyên đán, lễ hội Quan Âm, Đản sinh, lễ Vu Lan, lễ cúng siêu cho các vong linh thai nhi - ấu nhi đến năm 13 tuổi, lễ truyền tam quy ngũ giới. Từ nhiều năm nay, Linh Sơn cổ tự đã trở thành nơi tham quan chiêm bái ưa thích của người dân Vũng Tàu và khách thập phương. Ngôi chùa cũng đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử.

TP Hồ Chí Minh 2766 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Đình Thắng Tam (đình Thắng Tam, Lăng Cá Ông, Miếu Bà)

Đình thần Thắng Tam tọa lạc trên đường Hoàng Hoa Thám, Phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu, đây là một quần thể gồm Đình thần Thắng Tam, miếu Ngũ Hành và lăng Cá Ông. Đình thần Thắng Tam được xây dựng từ đời vua Minh Mạng, ban đầu đình chỉ được làm bằng tre lá, đến năm 1835 nhân dân đã đóng góp tu sửa, lợp mái ngói cho đình và đến năm 1965 đình được trùng tu, xây dựng kiên cố và giữ nguyên bố cục kiến trúc như ngày nay. Đình thờ chung cả ba người đã có công xây dựng nên ba làng ở Vũng Tàu, đó là Phạm Văn Dinh, Lê Văn Lộc và Ngô Văn Huyền. Vào thời vua Gia Long, bọn hải tặc thường hay đột nhập cửa sông Bến Nghé đón đường cướp bóc tiền bạc, hàng hoá. Để bảo vệ thương thuyền của người Việt, vua Gia Long liền phái ba đội quân đi trên ba chiếc thuyền bảo vệ sự thanh bình của bờ biển cửa ngõ, và khai hoang lập ấp, làm ăn sinh sống. Khoảng năm Minh Mạng thứ 3 (1822), tình trạng hải tặc không còn nữa, nhà vua ban chiếu khen thưởng chức tước, phẩm hàm và phần đất mà ba đội quân có công khai phá cho họ. Từ ba vị trí của ba đội quân dần dần hình thành nên ba làng. Làng thứ nhất gọi là làng Thắng Nhất do ông Phạm Văn Dinh cai quản, làng Thắng Nhì do ông Lê Văn Lộc cai quản, làng Thắng Tam do ông Ngô Văn Huyền cai quản. Sau này, ba ông trở thành Tiền Hiền được thờ tại ba ngôi đình của ba làng nói trên. Đình có kiến trúc theo lối nối tiếp gồm bốn ngôi nhà nối liền nhau bằng một lối đi bên hông, đó là Tiền Hiền – Hội Trường – Đình Trung – Sân khấu võ ca. Trong đình bài trí nhiều đồ lễ chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Ngôi Tiền hiền được lợp bằng ngói âm dương, trên mái có “lưỡng long chầu nguyệt” đắp nổi. Đầu các đòn tay, xà gồ, cột đều chạm khắc hình rồng. Nội thất nhà Tiền Hiền bày 4 bàn thờ gồm bàn thờ Thổ Công, Tiền Hiền, Hậu Hiền và Tiền Vãng - Hậu Vãng. Hội trường là nơi sinh hoạt của các hội viên. Tiếp sau phần hội trường là ngôi Đình Trung có cấu trúc tương tự ngôi Tiền Hiền, bày 10 bàn thờ gồm bàn thờ Thần Nông, Thiên Y A Na, Ngũ Đức, Thánh Phi, Hậu Hiền, Hội Đồng, Phụ Án - Cao Các, Thiên Sư, Ngũ Thơ và Ngũ Tự - Tiền Hiền. Còn sân khấu võ ca là nơi diễn tuồng, hát bội khi đình có lễ. Miếu Bà Ngũ Hành Phía bên tay trái cổng khu di tích là Miếu Bà Ngũ Hành. Miếu được xây dựng vào cuối thế kỉ 19 thờ năm bà nữ thần: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Ngoài ra miếu còn thờ 2 vị hộ quốc được vua thăng Thượng Đẳng Thần là bà Thiên Y A Na và Thủy Long Thần Nữ. Miếu Bà Ngũ Hành được xây dựng theo lối kiến trúc một gian hai chái, trên mái có lưỡng long chầu nguyệt. Trong Miếu có 8 bàn thờ: giữa chính điện là bàn thờ 5 bà Ngũ Hành và hai vị Thượng Đẳng Thần; hai bên là bàn thờ 5 cô và 5 cậu; bên trái thờ Quan Công, Quan Bình và Châu Xương là những bậc trung nghĩa sẵn sàng cứu hộ những người đi biển khi họ gặp chuyện không may; Bên phải là bàn thờ Ông Địa – Thổ Công; phía sau là bàn thờ Tiền Hiền và những người giàu lòng nhân ái, độ lượng trong làng. Lăng Cá Ông nằm bên phải của khu di tích được xây dựng cùng thời kỳ với Miếu Bà ngũ Hành. Trong lăng hiện nay có một phần bộ xương của Cá Ông khổng lồ do ngư dân Vũng Tàu vớt được từ khoảng 100 năm trước. Lăng có kiến trúc theo lối cổ xưa, bên trong trưng bày tủ kính lớn chứa xương của Cá Ông và tương xứng với ba bàn thờ. Hai bên có thêm hai bàn thờ của Bà Sáu (Thần Rùa) và tổ nhạc. Hiện nay, khu di tích Đình thần Thắng Tam còn lưu giữ 12 sắc phong của vua Thiệu Trị và Tự Đức, trong đó có 6 sắc phong cho Đại Càn Quốc Gia Nam Hải (Cá Ông), 3 sắc phong cho Thiên Y A Na diễn Ngọc Phi và 3 sắc phong cho Thủy Long Thần Nữ. Hàng năm, đình thần Thắng Tam có 3 lễ hội lớn là cầu an (từ 17 đến 20 tháng 2 âm lịch), Nghinh Ông (từ 16 đến 18 tháng 8 âm lịch) và miếu Bà (từ 16 đến 18 tháng 10 âm lịch). Nguồn: Trung tâm xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

TP Hồ Chí Minh 3424 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử cách mạng Đồn nhà máy nước

Di tích lịch sử cách mạng Đồn nhà máy nước Vũng Tàu tọa lạc trên đường 30 tháng 4, phường 9, TP Vũng Tàu, nằm giữa Trường THPT Trần Nguyên Hãn và Công ty Cổ Phần Cấp nước Bà Rịa – Vũng Tàu. Đồn nhà máy nước tuy chỉ là một di tích có quy mô khiêm tốn, nhưng để lại những giá trị lịch sử đấu tranh cách mạng với nhiều trận đánh ác liệt, nêu cao tinh thần vì độc lập của quân và dân ta. Di tích Đồn nhà máy nước Vũng Tàu nằm cách nút giao đường Nguyễn An Ninh – Phạm Hồng Thái – 30 tháng 4 (ngã tư Giếng nước) khoảng hơn 50m. Di tích này có chiều dài khoảng 5m, rộng 3,7m, cao gần 4m, được xây dựng bằng đá, gạch, vôi, xi măng, sắt thép và gỗ. Đây là một công trình quân sự nhỏ, chia làm hai tầng, ngăn cách bằng một bức sàn gỗ, có các lỗ châu mai hướng về bốn phía. Thời kỳ chiến tranh, địa thế Vũng Tàu (Ô Cấp) có ý nghĩa quan trọng về mặt quân sự, nên quân Pháp chiếm đóng đã bắt tay xây dựng bến cảng và sân bay ngay từ khi đặt chân đến Vũng Tàu. Khi đó, tại vùng đất được biển bao bọc này, nước ngọt là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nên người Pháp đã xây dựng hệ thống cấp nước (giếng khoan, nhà máy lọc nước…) ngay tại vị trí gần ngã tư Giếng nước TP Vũng Tàu ngày nay. Để bảo vệ sân bay, bến cảng và hệ thống đầu nguồn cấp nước cho cả Vũng Tàu, quân Pháp lập một đồn lính nằm ngay bên cạnh nhà máy nước, nên gọi là Đồn nhà máy nước. Đồn này do lực lượng bảo an chiếm giữ với quân số khoảng một đại đội, được trang bị hỏa lực mạnh, án ngữ cửa ngõ Vũng Tàu lúc bấy giờ. Thời ấy, địch kiểm soát gắt gao việc đi lại của người dân ở khu vực này, khiến cho hoạt động của quân dân ta gặp khó khăn. Vì vậy, Đồn nhà máy nước trở thành mục tiêu cần phải tiêu diệt của lực lượng vũ trang cách mạng. Năm 1948, Ban hành động Cấp, Công an xung phong, Đội trinh sát 51 và lực lượng của Thị đội Cấp đã 2 lần tấn công vào Đồn nhà máy nước, phá đồn, thu 150 súng các loại. Các trận đánh tiến công Đồn nhà máy nước đều rất ác liệt, góp phần tiêu hao sinh lực và hỏa lực địch, ghi dấu chiến công trong lịch sử đấu tranh cách mạng của quân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu năm xưa. Năm 1985, nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, chính quyền đặc khu đã cho xây dựng bức phù điêu trước Đồn nhà máy nước kỷ niệm chiến thắng 2 trận đánh đồn năm 1948. Đồng thời, gắn biển khắc nội dung giới thiệu giá trị lịch sử tiến công địa điểm quân sự này. Ngày 4/8/1992, Bộ Văn Hoá-Thông Tin đã công nhận Đồn nhà máy nước Vũng Tàu là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử

TP Hồ Chí Minh 3063 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử cách mạng nhà số 86 - Phan Chu Trinh

Di tích cấp Quốc gia nhà 86 Phan Chu Trinh (hiện nay là số 5 Phan Chu Trinh, phường 2, TP Vũng Tàu) từng là nhà của viên quan tư người Pháp Pierre Chappus nằm trên đường Phan Chu Trinh, dưới chân Núi Nhỏ. Ngôi nhà được xây dựng theo lối kiến trúc cũ đầu thế kỷ 20 của Pháp. Trong thời kỳ chiến tranh, ngôi nhà này từng là nơi nuôi giấu cán bộ hoạt động cách mạng. Ông Pierre Chappus có cha là người Pháp, mẹ là người Việt Nam. Ông là quan tư của chính quyền Pháp, chủ Sở Hải Đăng Vũng Tàu. Ngôi nhà của ông Pierre Chappus lúc đó tường xây bằng đá xanh, mái lợp ngói tọa lạc trên mảnh đất chiếm khoảng 100m mặt tiền đường Phan Chu Trinh và sâu vào 80m. Chung quanh nhà có nhiều cây ăn trái như dừa, xoài, mãng cầu, vú sữa, ổi, chanh… Phía sau nhà có hồ sen rất lớn và một cây vải thiều cỡ hai người ôm. Ông Pierre Chappus tuy là quan chức của Pháp, nhưng ông lại có cảm tình với cách mạng Việt Nam, đặc biệt rất kính trọng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Trong lúc điều kiện vật chất, đời sống vô cùng khó khăn, ông ủng hộ cho Việt Minh tiền của, lúa gạo, cùng 50 con bò. Ông đã sử dụng ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh của mình làm nơi nuôi giấu, bảo vệ cán bộ hoạt động bí mật, trong đó có đồng chí Nguyễn Hoài Đức, Thị đội trưởng Vũng Tàu. Thời bấy giờ, nhà ông Pierre Chappus luôn nuôi 5-7 con chó, mỗi con đặt một cái tên, mỗi khi nghe tiếng người lạ tới thì bầy chó sủa đánh động ở cửa trước, các đồng chí cán bộ liền len lỏi theo vườn cây ăn quả thoát ra bằng cửa sau. Những trường hợp là người quen (cán bộ) vào cổng, chó sủa, ông chỉ việc kêu tên từng con một là chúng nằm im không sủa. Thời kỳ chống Mỹ, ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh được ông Pierre Chappus đồng ý cho cách mạng đặt làm Văn phòng Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh, thể hiện tấm lòng đầy thiện cảm đối với cách mạng Việt Nam. Ông cảm động nói với các cán bộ: “Các chú cứ lấy nhà tôi mà làm việc, rủi khi tôi có bị địch bắt mà chết thì đó cũng là một vinh dự cho tôi được chết cho cách mạng Việt Nam”. Năm 1957, Văn phòng Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh chính thức đặt tại nhà ông Pierre Chappus. Thường trực Văn phòng gồm đồng chí Trịnh Phong Đán và đồng chí Hồ Sĩ Hành. Lúc này, nhà ông Pierre Chappus nuôi 10 con chó, đây là “lực lượng” quan trọng trông giữ nhà rất hữu hiệu, bảo vệ an toàn cho cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Tới cuối năm 1958, Văn phòng Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh phải chuyển đi nơi khác để bảo đảm bí mật, nhưng ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh vẫn là cơ sở để cán bộ lui tới nhờ sự giúp đỡ, vận động tiền và vật chất cho cách mạng. Ông Pierre Chappus mất vào năm 1959 ngay tại căn nhà 86 Phan Chu Trinh, thọ 81 tuổi. Ngày 4/8/1992, ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh được Bộ Văn Hoá –Thông tin Thể thao –Du Lịch công nhận là di tích cấp Quốc gia. Theo đó, vào những dịp lễ, Tết, Trường Trung Học Đoàn Kết thường tổ chức cho các em học sinh đến dọn dẹp vệ sinh và tham quan nhà 86 Phan Chu Trinh, đồng thời giới thiệu cho các em về lịch sử đấu tranh giữ nước trường kỳ và hào hùng của dân tộc. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử

TP Hồ Chí Minh 2890 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử cách mạng “Nhà cao cẳng” số 18 Lê Lợi.

Di tích lịch sử “Nhà cao cẳng” tọa lạc ở số 18, đường Lê Lợi, TP Vũng Tàu là nơi diễn ra nhiều cuộc họp bí mật của Tỉnh ủy Bà Rịa-Long Khánh trong những năm tháng kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Nhà cao cẳng rộng 160m2, và sở dĩ có tên gọi như vậy vì phía dưới ngôi nhà là hàng 4 dãy cột đá, mỗi cột cao 2,2m, cạnh vuông 40cm như đôi chân chống đỡ ngôi nhà. Nhà được xây dựng theo kiến trúc kiểu nhà nghỉ biệt lập, có hàng rào, sân vườn bao quanh. Nhà được chia thành 2 khu: khu nhà chính và khu nhà phụ. Khu nhà chính gồm 2 tầng, tầng trệt là dãy cột trụ chống đỡ cả ngôi nhà. Tầng lầu là nơi ở chính của ngôi nhà, được thiết kế 2 mặt trước và sau có cầu thang lên xuống, xây thoai thoải từ phía ngoài trời dẫn lên lầu. Bên trong có một sảnh lớn dùng để tiếp khách và các phòng nhỏ dùng để nghỉ ngơi. Ở các phòng đều có cửa sổ hướng ra khu vườn, tạo nên một không gian tĩnh lặng. Mái nhà được lợp bằng ngói tây, tương tự mái nhà của dân tộc Thái, mái dốc xuống ở 4 phía, 2 phía đầu hồi đều có tam giác nhỏ để đón gió chống nóng. Khu nhà phụ là gian nhà rộng 2,25m, mái ngang 6m dùng làm nhà bếp và lối dẫn lên nhà chính. “Nhà cao cẳng” được ông Deloudet, Công chức, Sĩ quan người Pháp làm việc ở Sài Gòn cho xây dựng hoàn thành vào khoảng năm 1949. Ngôi nhà được xây để ông cùng vợ là bà Chau Chon làm nơi nghỉ mát ở Vũng Tàu. Xung quanh khu vực “Nhà cao cẳng” có nhiều biệt thự và khu nghỉ mát, hướng ra bãi biển, an ninh được kiểm tra rất nghiêm ngặt. Năm 1950, ông Deloudet về Pháp, ngôi nhà trở thành tài sản của bà Chau Chon. Đến năm 1951, bà bán ngôi nhà này cho kỹ sư nông nghiệp Nguyễn Văn Chiến. Năm 1952, ông Ba Trà, công nhân một nhà máy nước ở Bà Rịa được giao trọng trách trông coi “Nhà cao cẳng”. Ông là một người nhiệt tình tham gia vào các phong trào cách mạng của Đảng bộ; ông nhiều lần bị giặc bắt, được thả và luôn nằm trong tầm ngắm của quân địch. Với tinh thần yêu nước, tại Vũng Tàu, ông nhanh chóng kết nối với Đảng và tiếp tục làm cơ sở bí mật cho các cán bộ hoạt động cách mạng. Lợi dụng sự lơ là, thiếu cảnh giác của địch, trong thời gian từ năm 1956-1959, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bà Rịa-Long Khánh đã biến “Nhà cao cẳng” và các biệt thự xung quanh thành cơ sở cách mạng, làm nơi ăn, chốn ở, nơi đi lại sinh hoạt hội họp của các đồng chí lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại đây, dưới sự chỉ dẫn dắt của đồng chí Năm An Chi, phong trào cách mạng trong quần chúng nhân dân phát triển mạnh mẽ và sâu rộng. Trong các năm 1956, 1957, nhiều cuộc họp bí mật diễn ra tại “Nhà cao cẳng”. Trong cuộc họp, nhiều chủ trương của Đảng được triển khai, kịp thời bám sát tình hình, thúc đẩy phong trào cách mạng địa phương phát triển. Trong tháng 3 và tháng 4 năm 1959, chính tại nơi đây, Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức cuộc họp với Huyện ủy Vũng Tàu nhằm kiểm tra công tác học tập Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng và triển khai những Chỉ thị của Đảng bộ liên tỉnh miền Đông; chương trình vận động phong trào quần chúng nhân dân chống luật của chính quyền Ngô Đình Diệm . Hiện tại di tích lịch sử cách mạng “Nhà cao cẳng” nằm trong khuôn viên của Cục Hải quan TP Vũng Tàu và do đơn vị này quản lý. Phần lớn kiến trúc ngôi nhà vẫn được giữ nguyên vẹn. Do chỉ tồn tại trong thời gian ngắn của thời kỳ đầu kháng chiến chống đế quốc Mỹ nên các hiện vật không được lưu lại. Năm 1991, “Nhà cao cẳng” được Bộ Văn Hoá Thông Tin công nhận là di tích lịch sử cách mạng. Nguồn: Báo Bà Rịa – Vũng Tàu

TP Hồ Chí Minh 2741 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật