Di tích lịch sử

Việt nam

Khu di tích lịch sử chiến trường Bình Giã

Đầu những năm 60 của thế kỷ 20, Bình Giã là địa bàn quan trọng đối với địch về quân sự, chính trị, kinh tế. Xung quanh Bình Giã, địch bố trí một lực lượng quân sự hùng hậu, được trang bị vũ khí hiện đại, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cố vấn Mỹ. Trước tình hình này, để tạo thế và lực mới cho cách mạng miền Nam, ngày 2-12-1964, ta quyết định mở chiến dịch Bình Giã. Lực lượng tham gia Chiến dịch Bình Giã của ta gồm có: 2 trung đoàn bộ binh (761 và 762), 4 tiểu đoàn trợ chiến (cối 81, ĐKZ 75, trọng liên 12,7) của Bộ Tư lệnh miền; 2 tiểu đoàn (d800 và d500) của Quân khu 7; đại đội 445 của tỉnh Bà Rịa; 1 tiểu đoàn (d186) của Quân khu 6 và lực lượng tại chỗ của địa phương. Vũ khí trang bị cho các lực lượng chủ yếu là vũ khí cũ và vũ khí lấy được của địch trong các trận chiến trước đó. Mặc dù lực lượng tham gia chiến dịch mỏng, trang bị vũ khí còn thiếu thốn và thô sơ nhưng dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Trung ương cục, Bộ Tư lệnh miền và đặc biệt là tinh thần chiến đấu anh dũng của các cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân, ta đã giành chiến thắng vang dội. Kết thúc Chiến dịch Bình Giã (7-3-1965), ta tiêu diệt gọn Tiểu đoàn thủy quân lục chiến 4, Tiểu đoàn biệt động quân 33 và Chi đoàn xe cơ giới M113; đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn khác và nhiều đại đội; bắn rơi, phá hủy 56 máy bay, 45 xe quân sự; tiêu diệt và làm bị thương hơn 1.700 quân địch; thu hơn 1.000 khẩu súng các loại và gần 100 máy thông tin. Qua chiến dịch, ta phá banh, phá rã nhiều “ấp chiến lược”, cơ bản giải phóng vùng nông thôn các huyện Châu Đức, Long Đất, Xuyên Mộc và một phần huyện Xuân Lộc. Nhờ vậy, căn cứ kháng chiến của ta được mở rộng từ Châu Pha, Hắc Dịch nối liền với chiến khu D. Chiến thắng Bình Giã có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với cách mạng miền Nam. Chiến thắng này đã chứng minh tính đúng đắn về đường lối cách mạng miền Nam của Đảng; chứng tỏ sự trưởng thành của quân đội ta về chiến thuật, chiến dịch và nghệ thuật chỉ đạo tác chiến; tạo bước ngoặt so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Bên cạnh đó, Chiến thắng Bình Giã còn có ý nghĩa chính trị to lớn ở trong và ngoài nước. Nó tăng thêm niềm tin tất thắng của toàn dân, toàn quân ta, từ đó tiếp tục vượt qua mọi khó khăn gian khổ, vươn lên giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vào ngày 30-4-1975. Để ghi dấu chiến công vang dội trong kháng chiến chống Mỹ trên vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu, Lãnh đạo và nhân dân trong Tỉnh đã xây dựng tượng đài Chiến thắng Bình Giã nằm sát bên quốc lộ 56, thị trấn Ngãi Giao. Khuôn viên Tượng đài rộng 20.000m2, gồm vườn hoa, khu Tượng đài, Đền thờ và các công trình phụ... Thân tượng cao 26m, màu ghi sáng, đặt trên bệ đá hoa cương đen cao 3m, tạo cảm giác mạnh mẽ. Với ba bàn tay nắm chặt đốc lê, phía trên là ba lưỡi lê vươn lên nền trời xanh tượng trưng cho ba thứ quân và ba mũi giáp công trong chiến thắng Bình Giã. Hai bên tượng đài là hai bức phù điêu (dài 7m, cao 3m) được ghép từ hàng ngàn mảnh gốm màu Bát Tràng (Hà Nội) thể hiện sự phối hợp chiến đấu và chiến thắng trong chiến dịch Bình Giã. Di tích đã được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 2754-Quyết Định /Bộ Trưởng, ngày 15 tháng 10 năm 1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1953 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử khu căn cứ Núi Dinh

Khu căn cứ Núi Dinh thuộc địa phận 3 xã: Hội Bài, Long Hương và Châu Pha huyện Châu Thành tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Vào đời vua Gia Long, Núi Dinh thuộc tổng Phước An, phủ Long Phước, thị trấn Biên Hòa. Đời Minh Mạng, Núi Dinh thuộc phủ Phước Tuy, trấn Biên Hòa., trước 1975 thuộc tỉnh Phước Tuy, sau đó thuộc tỉnh Đồng Nai. Dãy Núi Dinh nằm về phía đông bắc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, là một dãy núi quan trọng trong tỉnh với nhiều ngọn núi cao: núi Cao 193m, núi Dinh cao 491m, núi Bao Quan 504m, núi Da Dâu 436m. Núi Dinh được cấu tạo bằng đá Granit trong, hạt mịn màu ghi hoặc đen rất có giá trị trong xây dựng. Địa hình củ Núi Dinh có vị trí chiến lược quan trọng, từ đây có thể bao quát, án nhữ toàn bộ khu vực phía đông Sài Gòn, phía bắc là thành phố Biên Hòa cách 97 km, phía đông là căn cứ Minh Đạm (Long Đất), phía nam là Biển Đông, phía tây là thành phố Vũng Tàu cách 22 km, sông Lòng Tàu và sông Thị Vải. ới địa thế hiểm trở và thuận lợi, Núi Dinh được Thị ủy Bà Rịa và huyện Châu Đức tỉnh BRVT chọn làm căn cứ cách mạng trong 2 thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Từ căn cứ vừa có thể quan sát tập hợp lực lượng thọc sâu vào trung tâm đầu não và uy hiếp địch. Ngược lại địch dễ dàng tập trung đánh căn cứ bất kỳ lúc nào vào lực lượng của ta trên căn cứ. Căn cứ cách mạng núi Dinh (quốc lộ 51, thuộc địa phận thị xã Bà Rịa và huyện Tân Thành) là di tích lịch sử cách mạng độc đáo của Tỉnh, trải dài trên một diện tích rộng địa hình phức tạp, an toàn trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của tỉnh. Hiện trạng cảnh quan di tích không có sự thay đổi nhiều. Cảnh quan và cây rừng được bảo vệ và phát triển tốt. Các hang động vách núi đá thiên nhiên, địa hình xưa kia tận dụng làm căn cứ vẫn còn nguyên vẹn, không có sự xâm hại bởi yếu tố con người. Di tích bao gồm các địa điểm: Hang Dây Bí, hang Tổ, hang Mai, hang Ông Trọng, căn cứ Bưng Lùng, hang Dơi, căn cứ Chùa Diệu Linh. Với giá trị lịch sử to lớn đó , khu căn cứ Núi Dinh được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng di tích quốc gia theo Quyết Định số 2015 Văn Hóa /Quyết Định, ngày 16/12/1993 của Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1974 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Niết Bàn Tịnh Xá

Chùa nằm trên sườn Núi Nhỏ, hướng mặt ra biển. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc sắc sảo. Ngày 14/12/1989, chùa được Bộ Văn hóa, Thông tin công nhận xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định 1987. Trước chùa có một trụ Phướn cao 21m, có 42 não biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, trụ được đúc bê tông, dưới to, trên nhỏ dần, xung quanh ốp gạch men màu vàng đỏ, trên có ba nhánh búp sen tỏa đều ra ba hướng là một nét độc đáo của Niết Bàn Tịnh Xá. Hai bên cổng chùa đặt 2 pho tượng "Thần Thiện" và "Thần Ác". Khu chính điện thờ bức tượng "Phật Nằm" màu nâu hồng được đánh bóng công phu, khéo léo nằm nghiêng nhìn về hướng Tây, dài 12m và được đặt lên bệ thờ cao 2,5m. Mặt ngoài của bệ thờ có hình tượng các đồ đệ của Phật Thích Ca đang chứng kiến lúc ngài nhập điện. Phía trên đầu và sau lưng Đức Phật Nhật Niết Bàn là quang cảnh thiên nhiên xanh với 2 cây Long Thọ, điểm tô thêm con công, con hạc dang rộng cánh ẩn hiện trong mây, con sư tử, con hổ, con khỉ phủ phục Chầu Đức Phật viên tịch Nhập Niết Bàn. Tất cả đều được đắp nổi, chạm khắc công phu với màu sắc hài hòa, tạo nên khung cảnh vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh chốn cửa Phật. Phía trước chánh điện có một chiếc lư đồng Tứ Linh (Long, Ly, Quy, Phụng) có kích thước lớn, được trang trí khéo léo công phu là báu vật của chùa. Phía sau chánh điện là "Trai đường" của Chư Tăng. Trong phòng có treo 34 bức ảnh diễn tả lại cuộc đời đức phật từ khi sinh ra đến khi các đệ tử chia nhau Xá Lợi. Trong phòng còn bài trí nhiều tranh tượng khác như tranh Di Lặc Lục Trần... Khoảng sân lầu 3 có nhiều cây cảnh, nhưng đặc biệt là chiếc thuyền Bát nhã, hình tượng một con rồng lớn cách điệu, dài 12m, xung quanh được ốp mảnh sứ men lam, men màu. Thuyền tượng trưng cho sự cứu vớt con người ra khỏi khổ ải đến chốn vĩnh cửu bất diệt. Nổi bật trên sân này là một lầu chuông hình vuông, bốn mái uốn cong, trong tháp có một chuông lớn gọi là Đại Hồng Chung, cao 2,8m, chu vi 3,8m, nặng tới 3,5 tấn. Đây là chiếc chuông lớn nhất, nặng nhất và có âm vang hay nhất trong các chuông chùa hiện có ở Vũng Tàu. tương truyền rằng những ai đến đây khấn vái, cầu nguyện xin an lành nếu dán được mảnh giấy cầu an lên chiếc chuông này thì sẽ được toại nguyện. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1567 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích lịch sử Minh Đạm

Nằm ở phía đông nam huyện Đất Đỏ, khu căn cứ Minh Đạm (hay còn gọi núi Minh Đạm) trước kia còn có tên gọi là Châu Long – Châu Viên. Núi Minh Đạm dài 8km và độ cao là 355m, với 3 mặt giáp biển cùng nhiều hang đá lớn nhỏ bí ẩn núp dưới những rừng cây, vách đá, suối nước ngọt róc rách quanh năm. Núi Minh Đạm được bắt nguồn từ tên ghép của hai chiến sĩ cách mạng đã hi sinh khi đang bị phục kích ở dưới chân núi – Bùi Công Minh và Mạc Thanh Đạm. Năm 1993, nơi đây đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (tiền thân của bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia và trở thành địa điểm du lịch về nguồn lý tưởng cho du khách. Núi Minh Đạm là nơi ghi nhận công ơn của các anh hùng dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Căn cứ hoạt động cách mạng ở núi Minh Đạm thời điểm đó có tên gọi là “chiến khu Minh Đạm”. Nay sau khi được trùng tu, xây dựng lại thành địa điểm tham quan du lịch có tên gọi ”khu di tích Minh Đạm”. Căn cứ núi Minh Đạm có 4 khu vực chính: Chùa Viên, Chùa Giếng Gạch, khu Châu Viên và khu Đá Chẻ được nối với nhau bằng con đường lát đá xuyên rừng. Tại đây, những dấu tích thuở xưa đang được bảo tồn là các kỷ vật thời chiến như bàn ghế, bếp núc, cầu gỗ cùng một số vật dụng thô sơ giúp cho khách tham quan có thể hiểu rõ hơn về cuộc sống sinh hoạt của bộ đội ta như cách tạo ra lửa từ đá, nấu cơm lam từ ống nứa... Đến với Núi Minh Đạm ngoài việc tìm hiểu về lịch sử, bạn còn được tham quan nhiều nơi lý thú, đặt chân vào những hang đá xưa kia từng là nơi làm việc, sinh hoạt của cán bộ, quân dân Bà Rịa – Vũng Tàu như hang Huyện Ủy, Quân Y, Quân Giới ….Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp( 1946 - 1954), dãy núi Minh Đạm là căn cứ của lực lượng cách mạng địa phương. Do địa hình núi phức tạp, khó tiếp cận, quân và dân ta đã chọn đây làm căn cứ chiến đấu bảo vệ cho các cuộc tấn công vào quân Pháp. Trong suốt thời gian này nhiều trận đánh lớn đã diễn ra tại đây, và quân đội Việt Minh đã lập được nhiều chiến công vang dội. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1955 - 1975), núi Minh Đạm tiếp tục trở thành căn cứ quân sự quan trọng của lực lượng cách mạng. Ngoài ra, Minh Đạm còn là nơi tưởng niệm những chiến sĩ hy sinh vì sự nghiệp dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1587 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Nhà Tròn Bà Rịa

Nhà Tròn Bà Rịa là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia mang nhiều ý nghĩa về lịch sử, là nơi ghi dấu nhiều sự kiện quan trọng trong cuộc cách mạng vì độc lập của người dân Bà Rịa - Vũng Tàu. Được gọi là Chatoau deau, Nhà tròn Bà Rịa là một tháp nước nhưng tựa như tháp canh mà từ đây có thể quan sát nhiều hướng đường từ các tỉnh thành đi vào Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhà Tròn Bà Rịa có tổng chiều cao khoảng 20m, chân nhà tròn là nhà hình bát giác cao 4m, cạnh 6m, có 8 trụ thẳng đứng bằng bê tông cốt thép có các xà ngang cố định cột để đỡ bồn nước bên trên. Bồn chứa nước có đường kính hơn 7m, mái che của nó được lợp bằng tôn. Dẫn nước lên bồn có 2 đường ống lên và xuống được bố trí nằm giữa các trụ bồn và một thang sắt để tiện lên xuống. Phía dưới bồn nước khi xưa còn có lắp đặt loa báo động đến nay vẫn còn và hiện tại còn có thêm loa truyền thanh của huyện Châu Thành. Sau chiến tranh, Nhà Tròn Bà Rịa được tu sửa lại và hiện nay được dùng làm Câu lạc bộ Thanh niên Bà Rịa. Có lẽ trong các di tích lịch sử, Nhà Tròn Bà Rịa là một điểm nhấn khá khiêm tốn nhưng đã từng có vị trí và vai trò quan trọng trong lịch sử của địa phương. Đến nay với nhiều người, mỗi lần đi ngang qua Nhà Tròn, lại là một lần khơi gợi chặng đường đáng nhớ trong lịch sử có nhiều sự kiện đã diễn ra. Nhà Tròn Bà Rịa như biểu tượng của một kho ký ức của bao người về một thời đau khổ có, nước mắt có nhưng cũng đầy tự hào về sự can đảm, hy sinh cũng như tình yêu đất nước mãnh liệt. Nhà Tròn Bà Rịa được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia ngày 05/06/1987. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1689 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích Nhà Lớn Long Sơn

Nhà Lớn Long Sơn là nơi thờ cúng đạo Khổng Tử, và nhà Thánh (thờ Khổng Tử). Chánh Điện là khu vực đầu tiên được xây dựng, tiếp sau đó là lầu Tiên, lầu Phật, lầu Cấm, nhà khách, vườn hoa và cổng tam quan lần lượt được xây dựng. Sau khi khu vực thờ cúng được hoàn thành, ông cho xây dựng lầu Dài, làm nơi nghỉ ngơi cho người đến thăm viếng, rồi tiếp tục xây 5 dãy phố cho cư dân đến lập nghiệp, trường học dạy chữ quốc ngữ và nhiều công trình thiết thực khác như nhà chợ, nhà máy xay lúa gạo, kho chứa thóc, nhà đèn, nhà thợ mộc, nhà bếp và nhiều hồ chứa nước ngọt … Tất cả những công trình này đều nằm trong một khu nên được gọi là Nhà Lớn. Sau khi ông mất, khu di tích này còn được gọi là đền Ông Trần. Nhà Lớn Long Sơn được xây dựng với phong cách pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian (trời, đất) với Nho giáo, Lão giáo của Khổng Tử. Đa phần các vật dụng chính trong Nhà Lớn đều được làm bằng gỗ xà cừ và cẩn hoa cương. Tại đây cũng có rất nhiều món đồ cổ quý giá như bộ tủ thờ, bộ lư hương và chân đèn cổ, nhiều bức hoành phi, liễn thờ, những vật dụng này được ông sưu tầm và đem về lưu trữ sau những chuyến hàng có lời từ Sài Gòn. Tín ngưỡng thờ Khổng Tử không yêu cầu quá nhiều nhang, đèn, kinh, kệ mà chủ yếu là những lời dạy, sách của đạo giáo mang ý nghĩa khai mở tri thức và khuyên răn con người. Du khách đến đây sẽ được đi tham quan hoàn toàn miễn phí, thậm chí còn được thưởng thức khoai mì, bánh ít trần, nhưng có một chú ý du khách nên chụp hình tại những nơi thờ cúng, chánh điện. Khi Ông Trần mất, ngoài đạo giáo của Khổng Tử, ở đây còn hình thành tín ngưỡng đạo ông Trần, vốn pha trộn nhiều đạo giáo khác nhau, nhưng chủ đích vẫn hướng con người đến với chân - thiện - mỹ. Con cháu của ông vẫn giữ gìn những phong tục, tập quán của ông, vẫn mặc quần áo bà ba, đi chân đất, tóc búi gọn gàng, để giữ vững hình tượng mà Ông Trần để lại, từ sinh hoạt đến cả tính cách đậm chất Nam Bộ. Nếu bạn có cơ hội ghé qua đảo Long Sơn, hãy nhớ ghé khu di tích Nhà Lớn Long Sơn, để tham quan Nhà Lớn và tìm hiểu về đạo Ông Trần. Với những giá trị văn hóa đặc sắc , khu di tích Nhà Lớn Long Sơn được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết Định số 1371 Văn Hóa /Quyết Định, ngày 03/08/1991 của Bộ Văn hóa Thông tin – Thể Thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1622 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Trận địa pháo cổ trên núi Tao Phùng (núi Nhỏ)

Trận địa pháo này cũng thuộc một trong ba trận địa, tạo thành tuyến phòng thủ Vũng Tàu của người Pháp được xây dựng cùng thời điểm với trận địa pháo cổ Núi Lớn. Trận địa pháo Núi Nhỏ có chức năng là chốt tiền tiêu và được bố trí thành ba cụm theo thế vòng cung bao quát cả vùng Biển Đông và Nam Vũng Tàu. Để xây dựng một trận địa pháo có thể nói là lớn nhất lúc bấy giờ thực dân Pháp đã bắt người dân lao dịch khổ sai dùng sức người xẻ đá ,phá núi làm đường, đào hào giao thông, xây hầm công sự đều làm bằng thủ công, phương tiện thô sơ đã cướp đi biết bao tính mạng, mồ hôi, xương máu của nhân dân ta. Với giá trị đó , Di tích Trận địa pháo cổ trên núi Tao Phùng (núi Nhỏ) được Bộ Văn Hóa Thông Tin theo Quyết Định số 57Văn Hóa/Quyết Định, ngày 18/01/1993 của Bộ Văn Hóa Thông Tin. Trận địa pháo cổ Vũng Tàu là bộ sưu tập vũ khí cổ lớn nhất Đông Dương, đây là một chứng tích lịch sử về sức mạnh phi thường của nhân dân ta. Từ Trận địa Pháo Núi Lớn du khách ôm theo bờ biển đi về phía Bãi Trước, đến đường Hải Đăng rẽ phải trước khi gặp đoạn đường cua đầu tiên hoặc đi theo lối vào Tịnh Xá Ngọc Bích và phía dưới chân tượng Chúa Ki Tô du khách bắt gặp một trong số 11 đại pháo của trận địa Núi Nhỏ được chia thành 3 cụm: + Cụm thứ nhất ngay dưới chân tượng chúa Ki tô, gồm 3 khẩu ở độ cao trung bình 136m so với mực nước biển và được đặt trong một công sự đào sâu dưới mặt đất. có đường kính 10,5m, ba cỗ pháo này có cùng kiểu dáng, cấu tạo, và cỡ đạn là 240mm, nòng dài 12,33mm, trên thân các cớ pháo đều ghi các dấu hiệu, kích cỡ nòng súng, kiểu dáng và năm sản xuất, trọng lượng của pháo và phân hiệu của đội. + Cụm thứ hai ( đặt tại Hải Đăng), gồm 5 khẩu, độ cao trung bình 91 m so với mực nước biển. Năm cỗ pháo này đều có cùng kiểu dáng, cấu tạo và cỡ đạn là 300mm. Trên thân pháo đều ghi các thông số cần thiết. . Cụm này nằm cách cụm pháo thứ nhất chừng 300m về phía Bắc. Hiện nay còn lại 04 khẩu, một khẩu chỉ còn lại mâm pháo do súng được chuyển về trưng bày trong bộ sưu tập súng cổ ở sân Bạch Dinh. +Cụm thứ (Tịnh xá Ngọc Bích), có 3 khẩu, ở độ cao trung bình khoảng 90m so với mực nước biển. Ba cỗ pháo của cụm này có cỡ đạn bằng nhau là 140mm. trên thân pháo đều ghi các thông số cần thiết. Hiện nay, 3 cỗ pháo này bị hoen rỉ hư hại nặng, các thông số cần thiết. Hiện nay, 3 cỗ pháo này bị hoen rủ hư hại nặng, các thông số bị mài mòn. Ba cỗ pháo được đặt riêng biệt trong ba công sự, cách đều nhau 27m và được nối thông với nhau bằng hệ thống giao thông hào và hầm trú ẩn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1621 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Phước Lâm

Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở thành phố Vũng Tàu, có niên đại gần 200 năm + chùa được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1992 và được xem là một trong những trung tâm phật giáo ở địa phương, thường xuyên có tăng ni phật tử trong nước và quốc tế ( chủ yếu người Ấn Độ) đến thưởng ngoạn và hành lễ. Vào những ngày lễ lớn như tết Nguyên Đán, rằm tháng Giêng, lễ phật Đản, lễ Vu Lan...số lượng tăng ni phật tử về chùa rất lớn có khi không còn chỗ nghỉ. Vì vậy chùa đang có kế hoạch tu bổ, nâng cấp mở rộng chánh điện nhưng vẫn bảo tồn được những nét kiến trúc xưa để giúp tăng ni phật tử toàn tâm hướng về đạo, đồng thời là điểm đến hấp dẫn khách hành hương, di lịch tâm linh. Chùa có kiến trúc dạng tứ trụ của chùa cổ miền Nam với hệ thống tượng phật phong phú : cạnh hồ sen là pho tượng Quan Âm Nam Hải cao 3,5m, chính điện có các pho tượng Di Dad, Tam Tôn, Thích Ca, A Nam, Ca Diếp, Phật nhập Niết Bàn, Tượng chuẩn Đề bằng gỗ, tượng ông Giám bằng đất nung... Đặc biệt, chùa còn lưu giữ tượng thần Vish NU bằng đá, có niên đại cuối thời phù Nam- Chân Lạp (khoảng thế kỷ thứ 7) rất quý hiếm.Thần VIsh Nu là thần bảo tồn vũ trụ thường ở các tháp Chàm Miền Trung Nam Bộ. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1553 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử "Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba"

Di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba (ấp Bình Đức, xã Bình Ba, huyện Châu Đức), là khu tưởng niệm 3.050 anh hùng liệt sĩ của Trung đoàn 33 đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng thời, là nơi yên nghỉ tập thể của 53 cán bộ, chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 - Trung đoàn 33 đã hy sinh anh dũng trong trận chiến không cân sức với kẻ thù (quân chư hầu Úc) ngày 6/6/1969. Đây là di tích lịch sử mang nhiều giá trị về lịch sử, khoa học quân sự, ca ngợi sự dũng cảm hy sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc của những người lính bộ đội cụ Hồ cùng với tình yêu thương đùm bọc của nhân dân các địa phương nơi các đồng chí đóng quân và chiến đấu đã giúp cho các đồng chí đứng vững trên chiến trường, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngày 29/12/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4248/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch xếp hạng di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba, thuộc xã Bình Ba, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là di tích cấp quốc gia để bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Đây là sự ghi nhận giá trị lịch sử, văn hóa của di tích lịch sử này, đồng thời ghi nhận những nỗ lực của Đảng bộ, Nhân dân Châu Đức, Ban Liên lạc cựu chiến binh Trung đoàn 33 và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của Di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba. Nguồn Sở Văn Hóa Thể Thao tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1538 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

 Chùa Long Bàn 

Chùa cổ Long Bàn còn gọi là chùa làng Long Điền (xưa thuộc tổng An Phú Thượng, quận Long Điền) ở thôn Long Phượng, Thị Trấn Long Điền, huyện Long Điền. Chùa tọa lạc trên một khu đất cao tương đối bằng phẳng. Trải qua gần 175 năm xây dựng chùa vẫn gần như nguyên trạng, lưu giữ những nét kiến trúc văn hóa nghệ thuật đặc sắc. Chùa được xây dựng vào năm Thiệu Trị thứ 5 - năm Ất Tỵ 1845 do 2 vị hòa thượng Hải Chánh và Bảo Thanh làm trụ trì đầu tiên và được dân làng tôn làm tổ sư. Kiến trúc chùa Long Bàn nguy nga, tráng lệ với những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc mang đậm nét truyền thống độc đáo, lưu giữ văn hóa tâm linh, thờ phượng Phật pháp. "Theo truyền thuyết, vùng đất Long Điền trước kia có 9 con rồng chầu. Ngôi chùa được xây dựng trên phần cuối cùng của dãy núi Thùy Vân, có nhiều tảng đá tự nhiên phẳng như bàn thạch nên dân làng đặt tên là chùa Long Bàn", sư thầy Thích Pháp Minh diễn giải. Ngôi chùa được xây cất theo kiểu chữ "Tam", mang phong cách Á Đông gồm 3 lớp nhà song song là tòa Giảng đường, tòa Chánh điện, nhà Tổ. Khuôn viên chùa bằng phẳng, rộng hơn 3.000m2 với nhiều cây cổ thụ tỏa bóng mát. Cổng chùa được xây dựng mới năm 1963 bằng đá hoa cương. Cửa 2 bên cuốn vòm, phía trên là lầu chuông và lầu trống. Phía trên 2 trụ cổng là tấm biển có hàng chữ "Long Bàn Cổ Tự". Trước tòa Chánh điện của chùa có ngôi nhà sàn bằng gỗ, trong đặt tượng "Tiêu Diêu Đạo Sĩ". Mái chùa được lợp ngói âm dương, đầu ngói có gờ viền bằng gốm men xanh. Trên đỉnh nóc chùa có gắn tượng "Lưỡng Long chầu nguyệt" và các bức tranh vẽ phong cảnh sơn thủy, hoa lá. Các kèo, cột bên trong chùa sử dụng hoàn toàn bằng gỗ tốt. Bên trong tòa Chánh điện, ở gian giữa thờ Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Quan Âm, Thế Chí, Ngọc Hoàng, Di Lặc, Bồ Tát. Gian bên trái thờ vị sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma, gian bên phải thờ Quan Thánh. Ngoài ra, tại đây còn có bàn thờ La Hán và Thập điện Diêm Vương. Phía sau Chánh điện là nhà thờ Tổ, thờ Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma và 2 bài vị của hòa thượng Hải Chánh và hòa thượng Bảo Thanh. Tòa Giảng đường rộng 227m2, mặt trước có những câu đối khắc chìm bằng sơn đen. Phía trên 3 cửa ra vào gần sát mái là những ô trang trí, miêu tả hoa, núi và các hoạt động của con người. Đây là nơi thuyết pháp về đạo Phật, làm đàn chay cúng cô hồn, tổ chức các giờ kinh sám hối. Đã trải qua gần 175 năm xây dựng, nhưng chùa Long Bàn vẫn còn lưu giữ được nhiều hiện vật lâu đời quan trọng như các pho tượng Phật, Ngọc Hoàng Thượng đế, Quan Thánh đế, 18 vị La Hán, Long Thần, Hộ Pháp… bằng gỗ mít; 8 khuôn in kinh khắc chữ Hán trên gỗ; các quả chuông, trong đó có đại hồng chung bằng đồng đường kính 0,4m, cao 1,2m, niên đại hơn 150 năm. Chùa Long Bàn với vẻ đẹp độc đáo về kiến trúc cổ, điêu khắc nghệ thuật mang giá trị văn hóa tâm linh lâu đời, tọa lạc giữa không gian hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, ngôi chùa trở thành điểm đến tín ngưỡng Phật pháp của người dân địa phương và du khách gần xa. Năm 1991, chùa cổ Long Bàn được Bộ Văn Hóa -Thể Thao công nhận là di tích lịch sử - văn hóa - danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1718 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Bạch Dinh

Bạch Dinh được dùng làm nơi nghỉ dưỡng và hội họp cho toàn quyền Pháp ở Đông Dương và quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn sau này. Đây cũng chính là nơi giam lỏng vua Thành Thái (từ 1909-1910), một vị vua có tư tưởng yêu nước, chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp. Được tọa lạc ở vị trí cao ráo cách mực nước biển gần 30m, từ tiền sảnh Bạch Dinh nhìn xuống, du khách sẽ có cảm giác như đang ở tầng lầu của một tòa cao ốc xây dựng trên mặt nước biển, có thể phóng tầm mắt bao quát cả trung tâm thành phố Vũng Tàu. Có hai lối lên Bạch Dinh: Một đường uốn quanh chạy dưới rừng cây giá tỵ dành cho xe hơi lên tới tiền sảnh. Một đường đi bộ qua 146 bậc tam cấp cổ xưa, kín đáo nằm giữa hai hàng sứ cao niên. Bạch Dinh với lối kiến trúc Châu Âu cuối thế kỷ 19, cao 19m, rộng 15 m, dài 28 m, gồm 3 tầng: Tầng hầm làm nơi nấu nướng; tầng trệt vừa làm nơi khánh tiết vừa dùng bày trí một số hiện vật cổ xưa như: Song bình bách điểu chầu phụng, bộ tràng kỷ hoàng gia có niên đại Khải Định (1921), cặp ngà voi châu phi dài 170cm… Tầng lầu thoáng hơn dành cho việc nghỉ dưỡng. Nhưng có lẽ ấn tượng hơn cả là 8 bức chân dung tạc các vị thần Hy Lạp thời cổ đại, từ gương mặt, mắt mũi đến sắc thái đều biểu hiện rõ ràng, sắc nét và tinh tế. Trải qua hơn thế kỷ, với bao biến đổi của thời gian, Bạch Dinh vẫn giữ nguyên tính sang trọng, hài hòa và uy nghiêm hiếm thấy. Từ năm 1991 đến nay một phần của Bạch Dinh được dùng làm bảo tàng, trưng bày 8.000 hiện vật độc bản nằm trong bộ sưu tập cổ vật gốm sứ có niên hiệu Khang Hy (Thế Kỷ 17) được trục vớt từ “kho báu Hòn Cau”. Các nhà khảo cổ cho biết số cổ vật này nằm dưới đáy biển gần 300 năm, tính đến thời điểm trục vớt nhưng vẫn giữ được màu men tuyệt đẹp. Nếu đem so với những bộ sưu tập khác được trục vớt trong vùng biển Cù Lao Chàm, Cà Mau, Bình Thuận… bộ sư tập cổ vật Hòn Cau vẫn luôn được đánh giá là bộ sưu tập đẹp nhất. Bạch Dinh không chỉ làm mê mẩn toàn quyền Pháp ở Đông Dương Paul Doumer, các quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ mà cho đến thời điểm hiện tại thì đây cũng là một trong số rất nhiều địa điểm tham quan của Vũng Tàu, thu hút được đông đảo khách du lịch đến tìm hiểu về lịch sử và tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên. Với những giá trị đó ngày 4 tháng 8 năm 1992, Bạch Dinh đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1524 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích lịch sử Địa đạo Long Phước

Di tích Địa đạo Long Phước thuộc xã Long Phước, cách trung tâm thành phố Bà Rịa khoảng 7 km về phía Đông Bắc. Đây là một chứng tích hào hùng của quân và dân ta trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế Quốc Mỹ xâm lược. Ngoài ra, Địa Đạo Long Phước còn là một công trình sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Di tích được công nhận là di tích quốc gia theo quyết định số 34/Văn Hóa.Quyết Định ngày 09/01/1990 của Bộ Văn hóa Thông tin. Do có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, là đầu mối căn cứ địa cách mạng của tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, nằm trên trục lộ giao thông (lộ 52 và 23), trục nối đường liên tỉnh Bà Rịa – Long Khánh nên Long Phước luôn là địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta với địch trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Năm 1948 nhằm bảo toàn lực lượng và củng cố phong trào cách mạng và cũng để đảm bảo tính mạng và tài sản của nhân dân khi có địch càn quét của địch, Đảng bộ Long Phước đã phát động phong trào đào hầm bí mật trong toàn xã. Đến năm 1949, Chi bộ xã đã có Nghị quyết xây dựng địa đạo vừa để bảo toàn lực lượng và có thể đánh trả địch. Thực hiện Nghị quyết của chi bộ quân và dân Long Phước đã phát triển hệ thống địa đạo ở 5 ấp: Đông, Tây, Nam, Bắc và Phước Hữu. Các cụm địa đạo được nối với nhau bởi đường xương sống, có hầm bí mật chứa lương thực dự trữ với các công sự chiến đấu. Đường địa đạo xương sống cách mặt đất 2-3m, lòng địa đạo cao 1,5-1,6m, rộng 0,6-0,7m đảm bảo đi lại, vận chuyển dễ dàng. Tiền thân là căn hầm nhà ông Năm Hồi với chiều dài 300 mét, nhờ đó tháng 10 năm 1949 lực lượng vũ trang cách mạng đã chiến thắng cuộc càn quét của giặc Pháp giữ vững ấp và cơ sở cách mạng. Năm 1963 địa đạo được khôi phục và phát triển ở ấp Nam Tây chiều dài 200m, có cấu trúc thêm giao thông hào, ụ chiến đấu, kho lương thực, hầm cứu thương. Địa đạo đã trở thành thế trận vững chắc để lực lượng cách mạng bám trụ kiên cường đánh bại nhiều cuộc tấn công, lấn chiếm của địch, điển hình là trận chiến 44 ngày đêm ( 05/3-01/4/1963). Ngày 05/3/1963 tiểu đoàn 61 do Quận trưởng Long Lễ trực tiếp chỉ huy cùng với lực lượng dân vệ có xe M113 yểm trợ đánh phá ấp Bắc Long Phước. Phía ta giữ vững trận địa 3 ngày liền chống trả sự tấn công của địch. Hai trung độ 445, C20 bộ đội huyện và du kích xã dựa vào hào giao thông, ụ chiến đấu để tiêu hao sinh lực địch. Ngày 08/3/1963, địch tăng cường thêm Tiểu đoàn biệt động quân 38, pháo binh và xe M113 càn quét ác liệt tại Long Phước. Đến ngày 01/4/1963 toàn bộ hào giao thông rơi vào tay giặc, các lỗ châu mai bị bịt kín. Cửa chính của địa đạo bị hai xe M113 đè lên. 250 chiến sĩ và nhân dân của ta rút hết xuống địa đạo, với sự chỉ huy của chính trị viên Nguyễn Minh Ninh các chiến sỹ của ta sử dụng quả mìn câm chế lại giao cho đồng chí Mười Dẫm và Sáu Bảo đột phá và đặt vào xích xe M113 rồi điểm hỏa. Khi mìn nổ chiếc xe bị hất tung, quân ta nhanh chóng trườn lên rút chốt trái sang, sử dụng các loại vũ khí ồ ạt tấn công. Trước đoàn bất ngờ, mau lẹ bọn địch không kịp trở tay và phải tháo chạy. Đây là trận chiến đấu lớn thu được nhiều thắng lợi: Tiêu diệt và làm bị thương 143 tên địch, phá hủy 12 xe M113 và đánh bại trận càn quét của địch với lực lượng đông gấp bội có thiết giáp, không quân và pháo binh yểm trợ. Trong suốt hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân và đế quốc, quân và dân Long Phước đã đào được tổng số 3.600 mét địa đạo, trong đó ấp Đông 650 mét, ấp Bắc 2.700 mét, ấp Nam 250 mét. Trải qua bao mưa bom, bão đạn địa đạo và quân dân Long Phước vẫn đứng vững kiên cường, xứng danh vùng đất một thời đạn bom vẫn được xem như “ núm sữa”quan trọng nuôi dưỡng phong trào cách mạng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và xứng đáng với danh hiệu cao quý mà đảng nhà nước ban tặng “ Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Địa đạo Long Phước là nơi ghi dấu truyền thống cách mạng hào hùng, là niềm tự hào, kiêu hãnh của thế hệ mai sau, là nơi thể hiện đường lối chiến tranh nhân dân mưu trí, sáng tạo của quân và dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong hai thời kỳ kháng chiến. Hiện nay địa đạo Long Phước đã được tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho trùng tu, tôn tạo, có phòng trưng bày truyền thống đón du khách trong và ngoài nước đến tham quan và tìm hiểu về lịch sử cách mạng. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1597 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử Địa điểm căn cứ Trung ương cục Miền Nam (1961-1962)

Địa điểm căn cứ Trung ương Cục miền Nam (1961-1962) được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số 02/2001/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 19/01/2001. Hiện nay, Căn cứ Trung ương Cục miền Nam tọa lạc xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Trước yêu cầu mới của cuộc cách mạng, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra nhiệm vụ chiến lược cho hai miền Nam - Bắc. Đặc biệt với cách mạng miền Nam tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Trung ương Đảng về chủ trương, đường lối và tổ chức thực hiện. Ngày 23/01/1961, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam và chỉ định Ban chấp hành gồm 08 đồng chí do đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc - Bí thư Trung ương Cục. Đồng chí Võ Chí Công (Võ Toàn) - Phó Bí thư; đồng chí Phan Văn Đáng (Hai Văn) - Phó Bí thư. Các đồng chí ủy viên gồm: Phạm Văn Xô (Hai Xô), Phạm Thái Bường, Võ Văn Kiệt, Trần Lương, Trương Công Thuận. Trung ương Cục miền Nam được giao nhiệm vụ lãnh đạo toàn bộ chiến trường miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào. Hội nghị Trung ương Cục lần thứ nhất đã đề ra nhiệm vụ cấp bách là xây dựng các cơ quan chuyên môn giúp cấp ủy đề ra các chủ trương, đường lối, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các chủ trương, chỉ đạo nghiệp vụ cho cấp dưới và đào tạo cán bộ thuộc ngành phụ trách. Các cơ quan chuyên môn gồm: + Văn phòng: do đồng chí chí Lê Vụ (Bảy Thành, Dư Khánh, Bảy Khánh) làm Chánh văn phòng. + Ban Tổ chức - Tuyên huấn: do đồng chí Phan Văn Đáng – Trưởng ban; đồng chí Nguyễn Văn Ngượt (Ba Lâm, Ba Rừng) và đồng chí Lê Tự Nhiên - Phó ban. + Ban cơ yếu: do đồng chí Nguyễn Văn Chín làm Trưởng ban; đồng chí Trần Tiến Liên và Nguyễn Hoàng làm Phó ban. + Ban Hậu cần: Do đồng chí Lý Văn Kỷ làm Trưởng ban; đồng chí Nguyễn Hữu Tân (Năm Mộc) làm Phó ban. + Ban An ninh: đầu tiên gọi là Ban bảo vệ An ninh Trung ương Cục, sau đổi thành Ban An ninh Trung ương Cục; do đồng chí Phạm Thái Bường - Trưởng ban; đồng chí Cao Đăng Chiến (Sáu Hoàng) - Phó ban. + Ban Quân sự Miền: Tư lệnh Trần Quang (Bảy Tiến); Chính ủy Trần Lương. Nhiệm vụ chỉ đạo tác chiến, xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang , xây dựng hình thành ba thứ quân. + Ban Kinh tài: do đồng chí Phạm Văn Xô (Hai Xô, Hai Già) làm Trưởng ban; đồng chí Nguyễn Văn Phi làm Phó ban. Từ căn cứ này, Trung ương Cục đã xây dựng các cơ quan chuyên môn cấp ủy; đề ra các chủ trương, đường lối; chỉ đạo và lãnh đạo nhân dân miền Nam trường kỳ kháng chiến trong suốt thời gian chiến tranh ác liệt tới ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng; bằng những chiến công vang dội như chiến thắng Hiếu Liêm, Phước Thành… góp phần tô đẹp thêm những trang sử oai hùng của quân dân miền Nam. Trải qua thời gian dài tồn tại và phát triển dưới sự tàn phá của chiến tranh, thiên nhiên và con người di tích Căn cứ Trung ương Cục miền Nam bị xuống cấp, hư hỏng. Năm 2004, thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đồng Nai đã tiến hành trùng tu, tôn tạo di tích Căn cứ Trung ương Cục miền Nam với các hạng mục: nhà bia, nhà trưng bày, đền tưởng niệm... nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị di tích và thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam xem như nơi đây là địa chỉ đỏ nhằm giáo dục thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Nguồn Cổng thông tin huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 1918 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa đạo Nhơn Trạch

Địa đạo Nhơn Trạch tọa lạc tại ấp 5, xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, còn được gọi là địa đạo Phước An vì khi xưa di tích thuộc xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa. Được biết, trước đây từ giữa năm 1963 cho đến cuối năm 1964, hệ thống địa đạo được đào 1.500m đường địa đạo với nhiều ngõ ngách, hầm bí mật. Hệ thống địa đạo liên hoàn khép kín được thiết kế có dạng gần giống chữ chi (Z). Đường xương sống địa đạo được 200m thì được trổ ngách sang hai bên để tạo thành phòng chức năng cho các đơn vị. Tại điểm chính giữa ở mỗi đoạn xương sống địa đạo (100m) được bố trí hai lỗ thông hơi hình phễu úp. Nhiều đoạn địa đạo thiết kế với nhiều đường thẳng gấp khúc, chiều dài mỗi đoạn khoảng 100m. Kích thước của địa đạo tính từ vòm tới đáy dao động: cao 1,8m đến 2m, ngang 1m đến 1,2m. Nóc địa đạo có cấu trúc hình vòm. Ngăn cách giữa các đoạn với nhau bằng một ngăn bí mật có nắp đậy kín, độ dày của ngăn là 1m được khoét một lỗ tròn có đường kính vừa thân người. Miệng chính của địa đạo được bố trí tại trung tâm căn cứ có kích thước dài 2m ngang 1m50, sâu 7m dẫn vào xương sống địa đạo. Độ sâu 7m tính từ mặt đất tới đáy địa đạo được đào theo hình rích rắc tạo thành những bậc thang. Phía trên địa đạo là căn cứ Huyện ủy được bố trí như một tam giác đều, mỗi cạnh dài 70m với ba mặt là giao thông hào sâu 2m, rộng 1m20 tạo thành hệ thống giao thông khép kín. Cách bố trí này được gọi bố trí theo kiểu “kiềng ba chân”, cả ba mặt giao thông hào được xây dựng 7 ụ chiến đấu, mỗi ụ có kích thước ngang 2m, dài 3m, sâu 1m20; phía trên lắp cây, đắp đất dày 1m, ba mặt bố trí ba lỗ châu mai. Bên ngoài hệ thống giao thông hào được bố trí hai hàng chông sắt lớn nhỏ và tầm vông vạt nhọn xen kẽ. Cuối cùng là ba lớp hàng rào kẽm gia. Dẫn vào căn cứ duy nhất có một con đường mòn nằm về phía tây bắc của rừng Lòng Chảo. Tại căn cứ này, quân dân Nhơn Trạch đã làm nên những chiến thắng vang dội trong những năm 1965 - 1970. Từ năm 1972, địa đạo Nhơn Trạch trở thành nơi bám trụ dài ngày của 500 cán bộ chiến sĩ Đoàn 10 Rừng Sác, là nơi xuất phát đánh địch ở các hướng sông Lòng Tàu, kho bom Thành Tuy Hạ… gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Với những giá trị to lớn đó, Địa đạo Nhơn Trạch đã được Bộ Văn hóa và Thông tin (Nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào ngày 19/01/2001. Ngày nay Địa đạo Nhơn Trạch là địa điểm về nguồn để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Giới trẻ đến để tham quan, tưởng nhớ công lao to lớn của cha ông xưa từ đó tu dưỡng đạo đức, nhân cách, cố gắng phấn đấu, cống hiến để xứng đáng với sự hi sinh to lớn của thế hệ đi trước. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 2417 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Căn cứ Khu ủy miền Đông Nam Bộ (Chiến khu Đ)

Khu ủy miền Đông Nam bộ (1962 - 1967) được Bộ Văn Hóa Thông Tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 3744-Quyết Định/Bộ Văn Hóa Thông Tin, ngày 29/11/1997. Tháng 6/1960, Bộ Chỉ huy lực lượng vũ trang giải phóng miền Đông (quân khu miền Đông) và Khu ủy miền Đông (T1) được chính thức thành lập, đặt cơ quan lãnh đạo, chỉ huy tại ngọn suối Linh (gọi là căn cứ 820) thuộc chiến khu Đ. Khu ủy miền Đông do đồng chí Mai Chí Thọ (Tám Cao) làm Bí thư. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến được cử làm chỉ huy trưởng, đồng chí Lâm Quốc Đăng làm chỉ huy phó. Các cơ quan Khu đều đóng dọc theo suối Linh. Tại đây, Khu ủy, Bộ Tư lệnh quân khu đã đứng chân trong suốt thời gian dài lãnh đạo chỉ đạo phong trào, mệnh lệnh tác chiến; nơi đứng chân và tổ chức chiến đấu bảo vệ các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy. Khu căn cứ tọa lạc trên đỉnh đồi đất sỏi khá bằng phẳng, độ dốc thoai thoải, diện tích trên 28ha, độ cao 20m so với bề mặt suối Linh. Toàn bộ khu đồi được bao phủ bởi rừng cây dày đặc trong hệ thống rừng nguyên sinh miền Đông. Một phần căn cứ được bao bọc bởi suối Linh quanh năm nước trong vắt, các loài hải sản dồi dào là nguồn thực phẩm vô tận cung cấp cho các lực lượng quân giải phóng. Căn cứ Khu ủy được cấu thành bởi: Hệ thống giao thông hào có tổng chiều dài 569m, sâu từ 50 đến 60cm, rộng 60cm phân làm ba tuyến (tuyến phòng thủ vòng trong, vòng ngoài và phục vụ cho việc canh gác và chiến đấu. Hệ thống địa đạo liên hoàn theo hướng Đông - Bắc và Tây - Nam có chiều dài trên 260m. Đường đi trong lòng địa đạo có nhiều đoạn gấp khúc, gãy góc, quanh co, có các ngã ba nối thông các đoạn địa đạo với nhau hoặc dẫn lên các miệng địa đạo tại các cửa hầm. Hệ thống miệng địa đạo độc lập chủ yếu dạng hình tròn và chữ nhật, độ sâu từ 3-4m trong các phân đoạn của hệ thống địa đạo. Hệ thống hầm trú ẩn được bố trí đều khắp trên mặt căn cứ, nơi làm việc của lãnh đạo Khu uỷ và các cơ quan trực thuộc gồm: văn phòng, cơ yếu, phục vụ, vệ binh… Ngoài ra, trong Khu căn cứ còn có hệ thống bếp Hoàng Cầm và giếng nước phục vụ cho sinh hoạt. Nằm ở vị trí thuận lợi cả về phòng thủ và tấn công, cách bố trí khoa học, Khu ủy miền Đông Nam bộ là địa bàn đứng chân của Khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu trong suốt thời gian từ 1962 - 1967. Từ đây, Khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang phối hợp với quân chủ lực miền Nam làm nên những chiến thắng vang dội như: Phước Thành, Hiếu Liêm, Bình Giã, Đồng Xoài, Đất Cuốc, Bàu Sắn... Từng bước làm phá sản hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt ” và ''Chiến tranh cục bộ '' của Mỹ - ngụy, mở rộng và bảo vệ an toàn căn cứ, chuẩn bị mọi mặt cho Tổng tiến công nổi dậy Xuân 1968. Trải qua thời gian, năm 2001, di tích Khu ủy miền Đông Nam bộ được phục hồi lại toàn bộ diện mạo gồm: Hệ thống địa đạo, hệ thống giao thông hào, hầm trú ẩn, văn phòng… Sau khi trùng tu, tôn tạo di tích thường xuyên đón tiếp nhiều đoàn khách trong và ngoài nước; các đồng chí lãnh đạo Trung ương đến tham quan, ôn lại truyền thống hào hùng của một giai đoạn lịch sử đã qua. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng Căn cứ Khu ủy miền Đông còn đó như một minh chứng lịch sử hào hùng cho tinh thần, lý tưởng cách mạng cao cả của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; nỗi ám ảnh cho cho kẻ thù xâm lược và cảm hứng cho văn học thi ca nhân loại. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 1835 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Căn cứ Sở Chỉ huy Đặc khu Quân sự Rừng Sác và Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác

Ngày 15-4-1966, một binh chủng đặc biệt được thành lập và trở thành bất tử với tên gọi Trung đoàn Đặc công rừng Sác anh hùng. Chiến khu Rừng Sác trải rộng trên diện tích hơn 2.200ha, thuộc các huyện Nhơn Trạch, Long Thành (Đồng Nai) đến H.Cần Giờ (Thành Phố Hồ Chí Minh). Hoạt động trong một điều kiện hết sức khắc nghiệt, giữa rừng ngập mặn, ngay sát nách quân thù với trang thiết bị, vũ khí tối tân, những người chiến sĩ đặc công thủy của Đoàn 10 Rừng Sác chỉ có “trái tim yêu nước nồng nàn, cộng với trí thông minh và trái bộc phá, con gao găm” (lời của đại tá - Anh hùng lực lượng vũ trang Lê Bá Ước, nguyên Trung đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đoàn 10, nguyên Phó chỉ huy kiêm Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai). Hơn 9 năm bám trụ, Đoàn 10 đã thực hiện hơn 600 trận đánh, hoàn thành mục tiêu khống chế toàn bộ hệ thống vận tải thủy tiếp tế cho Sài Gòn và phía Nam, đồng thời lập những chiến công vang dội ngay ở nội đô. Hơn 900 người đã hy sinh, đến nay còn hơn 500 liệt sĩ chưa tìm thấy... Tuy địa hình, cảnh quan nơi đây vẫn giữ được tương đối với hệ thống động thực vật phong phú nhưng do căn cứ làm chủ yếu bằng các vật liệu thô sơ như: Lá dừa nước, thân cây đước, sau khi chuyển sang địa điểm khác, hệ thống nhà làm việc, các cơ sở binh công xưởng của Sở Chỉ huy Đặc khu quân sự Rừng Sác và Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác bị phá hủy hoàn toàn. Trên khu đất của căn cứ xưa hiện có tấm bia đá tưởng niệm do đại tá Lê Bá Ước (đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác) lập để tưởng niệm các đồng chí, chiến sỹ đã hy sinh tại Đặc khu quân sự Rừng Sác. Việc đầu tư, tôn tạo di tích góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ và cũng để tỏ lòng tôn kính, tri ân các anh hùng liệt sỹ đã chiến đấu và anh dũng hy sinh tại đây. Căn cứ Sở chỉ huy Đặc khu quân sự Rừng Sác và Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác tại xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia tại Quyết định số 2105/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 08/7/2014. Nguồn Bộ Văn Hóa , Thể thao và Du lịch.

Đồng Nai 1879 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử Địa điểm vụ thảm sát Giồng Sắn

Ngày 23/9, Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch đã ban hành Quyết định số 3068/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch xếp hạng di tích quốc gia cho Di tích lịch sử Địa điểm vụ thảm sát Giồng Sắn, thuộc xã Phù Đổng, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, địa điểm Giồng Sắn là nơi diễn ra vụ thảm sát của chính quyền Sài Gòn ngày 25/10/1965 làm 536 thường dân chết và rất nhiều người khác bị thương. Sau sự kiện này, huyện uỷ Nhơn Trạch đã tổ chức một cuộc biểu tình với hơn 1.000 người tham gia, phản đối hành động sát hại dân lành của chính quyền Sài Gòn. Cuộc biểu tình gây nên dư luận căm phẫn lớn trong cả nước, lên án sự độc ác, tàn bạo của quân đội Sài Gòn. Cuộc thảm sát này cũng dấy lên dư luận, được báo chí nước ngoài đưa tin, lên án. Để tưởng nhớ những người đã mất trong chiến tranh, năm 2004, huyện Nhơn Trạch khởi công xây dựng công trình Bia - Công viên tưởng niệm Giồng Sắn trên diện tích 15.000m2, đây là di tích ghi dấu, tố cáo tội ác của kẻ thù trong cuộc thảm sát thường dân vô tội diễn ra trên vùng đất Nhơn Trạch của tỉnh Đồng Nai. Địa điểm Giồng Sắn đã được UBND tỉnh Đồng Nai xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2004. Nguồn Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du lịch.

Đồng Nai 2076 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích lịch sử địa điểm thành lập Đoàn 125

Khu di tích Đoàn 125 (ấp Suối Râm, xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ), nơi khai sinh của lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia và cũng là nơi an nghỉ của 49 chiến sĩ Campuchia được xem là một biểu tượng của tình đoàn kết Việt Nam-Campuchia. Cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, Thủ đô Phnom Penh của nước bạn Campuchia cũng được giải phóng vào ngày 17/4/1975. Tuy nhiên, ngay sau đó, cách mạng Campuchia lại bước vào thời kỳ đen tối bởi nạn diệt chủng của chế độ Khơ me Đỏ do tập đoàn Pol Pot-Yeng Sari đứng đầu. Trước tình hình đó, được sự giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, những chiến sĩ cách mạng chân chính Campuchia, trong đó có đương kim Thủ tướng Vương quốc Campuchia, ngài Samdec Hun Sen, đã sang Việt Nam để xây dựng lực lượng, đấu tranh lật đổ chính quyền diệt chủng Khơ me Đỏ. Ngày 12/5/1978, tại ấp Suối Râm, xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ, đơn vị tiền thân của lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia - Đoàn 125 được thành lập, do ngài Hun Sen làm Chỉ huy trưởng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, đã có 49 chiến sĩ của Đoàn 125 hy sinh tại đây. Cùng với các lực lượng yêu nước khác của Campuchia, Đoàn 125 đã phát triển thành quân đội hùng mạnh, lật đổ chính quyền Pol Pot, giải phóng nhân dân và đất nước Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Ngày 2/1/2012, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Vương quốc Campuchia Hun Sen, Khu di tích lịch sử địa điểm thành lập Đoàn 125 được khánh thành và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đã cấp bằng công nhận là Khu di tích văn hóa lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 1962 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Điểm di tích nổi bật